Thứ 7, 31/05/2025, 06:55[GMT+7]

Nhịp cầu nối những làng quê

Thứ 2, 22/07/2013 | 08:58:01
7,493 lượt xem
Đất nước ta nhiều sông ngòi, đầm hồ; có những dòng sông chảy xuyên suốt chiều dài tỉnh lỵ, gắn bó với những dòng sông là những cây cầu bắc ngang sông và nhiều cây cầu lớn, nhỏ chạy qua nội đồng, ao hồ tạo nên phong cảnh hữu tình.

Về các làng quê, ở đâu cũng thấy cầu. Có rất nhiều loại cầu và tên gọi ứng với từng đặc tính như cầu khỉ, cầu ván, cầu tre, cầu sắt, cầu đá, cầu phao, cầu ao, cầu kè, cầu sông... Đơn giản nhất là cầu khỉ - cầu độc mộc làm từ một thân tre, gỗ hoặc nhiều đoạn nối dài thành dải cho vắt sang hai bờ. Phức tạp hơn là cầu ván, có thêm mặt phẳng ở giữa lót ván hoặc ống nứa đóng đinh chắc chắn và cầu phao ghép từ các thùng phuy rỗng cho nổi bồng bềnh trên sóng. Cầu kỳ nhất là cầu đá, cầu xi măng, cầu sắt được đúc hoặc ghép liền khối... Nói chung, mỗi cây cầu đều có hình vòm, cũng có khi chỗ cong chỗ thẳng tạo nên những nhịp lên xuống đẹp mắt với một nhịp chính và đa nhịp phụ; đỡ rầm là các cột trụ đóng sâu xuống lòng sông.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều ngõ xóm và miệt vườn cách nhau bởi các con rạch, để vào các chòm xóm và vườn tược, người ta thường đốn tre, dừa hoặc gỗ làm nên những cái cầu tạm - cầu khỉ bắc ngang dòng mương, khi cần sẽ di dời. Trái lại, ở nơi thường xuyên có xe cộ đi qua với trọng tải lớn, tại đó sẽ xây cầu xi măng cốt thép cố định. Ở ven sông, các vùng bãi bồi hay sạt lở nguy hiểm, sẽ có cầu phao là loại cầu chiến lược trong thời chiến giúp vận chuyển lương thực, đạn dược và nay để qua các vùng lũ và  có thể tháo rời.

Mỗi cây cầu dù đơn giản, phức hợp, to nhỏ đều đóng vai trò quan trọng trong đời sống dân sinh, giúp cho việc đi lại tiện lợi, nhanh chóng. Cây cầu còn là mốc giới và vật chỉ đường khi cần thiết của người dân. Nó cũng là cái phao cứu hộ và dụng cụ đo mực nước giúp tiên đoán lũ lụt trên sông. Hơn thế, mỗi kiến trúc cầu - đường còn là một cảnh quan xinh đẹp thu hút khách du lịch đến với làng quê Việt Nam. Bên những cây cầu sừng sững nằm soi mình trên dòng nước trong xanh thường có những bụi tre già, cội đa, bụi ruối quanh năm rợp mát ríu ran tiếng côn trùng - chim chóc; ở những cầu tre, tuy đã rời cội song mầm tre vẫn nảy lộc xanh tươi dọc theo thân cầu, mỗi khi có gió là lao xao, lá xòe vẫy chào. Mặt cầu thường xuyên có dòng người xe cộ qua lại, các buổi họp chợ, nói chuyện xốn xang và gầm cầu là nơi người dân câu cá, bơi lội, giặt giũ, lấy nước tưới tắm... Trên sông, thuyền bè xuôi ngược, sen, súng, bèo hoa nở ngát hương. Đứng ở đâu trên cầu cũng mát dịu và có thể ngắm muôn dặm giang san thơ mộng vô cùng.

Không chỉ là đường đi, mỗi cây cầu cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Cầu còn như một sợi dây nối kết tình yêu đôi lứa, bảo đảm sự khăng khít giữa các dòng tộc - vùng miền, sự kế tục các giá trị văn hóa tinh thần lâu đời... Cầu cũng là biểu tượng của ý chí quật cường - anh hùng và vượt khó vươn lên.

Trong tiếng Việt, người ta thường nói đến “cầu” với nghĩa liên lạc, giao lưu và có cụm từ nhịp cầu hữu nghị hay đầu cầu này nối đầu cầu kia... Nói “qua cầu” để thể hiện một điều đã rồi hoặc sự giải thoát, thanh thản hay vượt khó vươn lên đến độ thành đạt. Ngược lại, “qua cầu rút ván” hàm ý về một kẻ bạc bẽo.

Trong kho tàng ca dao, tục ngữ cũng có nhiều câu nói chứa đựng từ “cầu” khắc họa cảnh sắc thiên nhiên hoặc miêu tả những câu chuyện thế thái - nhân tình như Con cò đậu cọc cầu ao/ Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay - chỉ một cảnh đẹp vùng sông nước cùng vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều của người thiếu nữ thôn quê.
Én bay thấp mưa ngập cầu ao/ Én bay cao mưa rào lại tạnh - chỉ kinh nghiệm về thời tiết, mùa vụ.

Ăn mày đánh đổ cầu ao/ Nhao nhao cầu ao cả xóm - chỉ sự sôi động, tấp nập.
Khen ai khéo bắc cầu kè/ Cái thia đi xuống, cái bè đi lên - chỉ sự tiện dụng, đa dạng.

Phải chi lấy được vợ vườn/ Tập đi cầu khỉ thêm đường dọc ngang - chỉ niềm mong ước có nhiều kinh nghiệm và cơ hội.

Qua cầu ngả nón trông cầu/ Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu - chỉ lòng yêu thương, khắc khoải.

Nhớ khi rửa bát cầu ao/ Tay cầm nắm đũa ta trao cho mình/ Nhớ khi ngồi quán đầu đình/ Ngồi huyện ngồi phủ có mình có ta - chỉ mối tâm giao thâm tình.

Yêu nhau cởi áo cho nhau/ Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay - chỉ lời nói dối khéo léo để che giấu chuyện yêu đương.

Anh có thương em thì thương cho trót/ Đừng mê nhan sắc, lỡ bỏ chung tình/ Chừng nào cầu ván hết đinh/ Mái chùa hết ngói chúng mình mới xa - chỉ lòng chung thủy, sắt son.

Muốn sang thì bắc cầu Kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy - chỉ việc cần thiết phải đầu tư và đền đáp công ơn đối với những người đã giúp đỡ mình để mọi sự công thành danh toại.

Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi/ Khó đi mẹ dắt con đi/ Con đi trường học, mẹ đi trường đời - chỉ những khó khăn trên đường đời, tình thương và sự lo lắng của các bậc cha mẹ dành cho con cái.

Với nhiều người, dù qua bao nhiêu cây cầu vẫn không quên được nhịp cầu tre, cầu dừa, cầu khỉ bắc qua xóm nghèo đã đi vào câu hát, lời ru: Quê hương là cầu tre nhỏ, mẹ về nón lá nghiêng che... Mỗi lần đi qua cầu, lòng lại dậy niềm vui, xúc động trước cảnh sắc quê hương ngày thêm đổi mới, tươi đẹp và cuộc sống người dân ấm no, hạnh phúc.

Chu Mạnh Cường
(Phố Chợ Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội)

 

  • Từ khóa