Thứ 7, 07/06/2025, 21:52[GMT+7]

Các ý kiến tại Hội thảo khoa học “Thái Bình - 125 năm hình thành và phát triển”

Thứ 2, 16/03/2015 | 22:44:22
1,449 lượt xem

 

Phát huy thế mạnh để tương xứng với truyền thống ông cha đã tích lũy và trao truyền

Nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch thường trực, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Namon>

 

Ðây là lần đầu tiên chúng ta có cuộc hội thảo bàn về vấn đề thành lập tỉnh Thái Bình, quan trọng hơn là khi đề cập đến đề tài này có sự chứng kiến, tham dự của các nhà lãnh đạo cao nhất của tỉnh cộng với sự phối hợp của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Theo tôi, ý nghĩa của cuộc hội thảo là rất quan trọng. Ðương nhiên những bài tham luận ở hội thảo không nói hết được nhưng đã nêu  được rất nhiều những vấn đề về lịch sử truyền thống, con người, thành tựu cũng như hạn chế trong suốt chặng đường 125 năm hình thành và phát triển tỉnh Thái Bình. Ðiều đó sẽ mang lại những bài học bổ ích, trước hết cho những nhà lãnh đạo, quản lý; đồng thời qua đó chúng ta có thể chia sẻ được với người dân để phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế sao cho tương xứng với những gì ông cha đã tích lũy, đã trao truyền cho chúng ta đến ngày hôm nay.

 

Tổ chức hội thảo khoa học là để khẳng định giá trị, ý nghĩa dấu mốc cách đây 125 năm - ngày 21/3/1890, tỉnh Thái Bình được thành lập, gắn liền với dòng chảy lịch sử Ðông Dương. Không phải tự nhiên mà người Pháp nhận thức ra một điều rằng: Tỉnh Thái Bình diện tích không lớn nhưng dân số rất lớn, chứng tỏ tiềm năng về một nguồn nhân lực cực kỳ quan trọng. Ðã đành người Pháp thành lập tỉnh Thái Bình với mục tiêu thực dân, nhưng họ đưa ra quyết định đó trên cơ sở nhận thức hiện đại và khoa học về quản trị quốc gia. Trải qua những băn khoăn, suy nghĩ, thậm chí mặc cảm với chế độ thuộc địa, chúng ta khẳng định đây là một công cụ, một phương thức quản lý địa phương có hiệu quả. Vì sao suốt 125 năm qua, trong đó có 70 năm là chế độ của chúng ta - tỉnh Thái BÌnh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới chính quyền mới, địa giới hành chính của tỉnh vẫn ổn định như thế, tỉnh Thái Bình là một tỉnh mà duy nhất rất ít biến động. Ðó chính là cơ sở quan trọng nhất để chúng ta thấy được ý nghĩa của câu chuyện, của sự kiện 125 năm trước mà chúng ta đã kế thừa những mặt tích cực của nền văn minh trong quản trị của xã hội, quản trị của chúng ta. Tôi nghĩ rằng đó là cách tiếp cận mới, khoa học và thực tế, giúp thống nhất nhận thức để phát triển địa phương cũng như phát huy vai trò của tỉnh đối với quốc gia.

 

Lịch sử nước nhà in đậm dấu ấn sự cống hiến của đất và người Thái Bình

PGS. TS Nguyễn Tất Giáp, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

 

Thái Bình nổi tiếng được biết đến không chỉ là “quê hương 5 tấn”, mà còn là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa với nhiều di tích, các bậc danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc... Con người nơi đây trọn tình gắn bó với quê hương; trải qua mỗi bước thăng trầm của lịch sử nước nhà, đều in đậm dấu ấn về sự cống hiến sức người, sức của cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, ngày nay Thái Bình đồng hành cùng cả nước, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, chung tay đóng góp sức - trí đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế vì mục tiêu phát triển, vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Suốt chiều dài lịch sử 125 năm từ ngày thành lập tỉnh, dù phải trải qua những giai đoạn khó khăn, gian khổ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng các thế hệ con người Thái Bình vẫn kiên trung trụ vững, nhiệt huyết vươn lên xây dựng quê hương. Trong lịch sử cách mạng, người Thái Bình một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, luôn sáng tạo trong sản xuất và đấu tranh, đóng góp to lớn đối với hai cuộc kháng chiến chống thực dân  Pháp và đế quốc Mỹ. Trong thời kỳ đổi mới, Thái Bình là một trong những địa phương đi đầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ðảng bộ và nhân dân trong tỉnh phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết, ý chí, nghị lực của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phấn đấu “xây dựng Thái Bình trở thành một tỉnh gương mẫu về mọi mặt” như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm tỉnh hằng mong muốn.

 

Triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh lần thứ XVIII trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp với nhiều khó khăn, thách thức lớn, nhưng Thái Bình đã vượt khó vươn lên, đạt được những thành tựu quan trọng. Những thành tựu này do nhiều nguyên nhân mà có, tuy nhiên, không thể không kể đến sự đóng góp của các hoạt động đối ngoại của tỉnh nhằm mở rộng quan hệ hợp tác, triển khai chủ trương, đường lối của Ðảng về hội nhập quốc tế, trước hết trên lĩnh vực kinh tế.

 

Bởi vậy, trong thời gian tới, Thái Bình cần tiếp tục đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế, quán triệt đúng tinh thần chủ động và tích cực. Ðịnh hướng này định vị hội nhập quốc tế như là một định hướng chiến lược để xây dựng và phát triển Thái Bình, đóng góp chung vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ðiều đó đòi hỏi các cấp, các sở, ban, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân trong tỉnh cần luôn coi hội nhập quốc tế là nội dung thường xuyên và quan trọng trong quá trình hoạch định các chiến lược, kế hoạch, cũng như trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình; đầu tư thích đáng nguồn lực cho hội nhập quốc tế, xử lý tối ưu thách thức, khó khăn và tận dụng hiệu quả các cơ hội, thuận lợi mà hội nhập quốc tế mang lại cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.

 

Ðịa danh Thái Bình ngày càng trở thành một địa chỉ đỏ

 

PGS.TS Trương Sĩ Hùng, Viện Nghiên cứu Ðông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Namon>

 

Nhìn lại lịch sử hình thành địa danh Thái Bình từ khi chính thức là tên một tỉnh trong lòng đất nước Việt Namon> là cần thiết. Mỗi địa danh ra đời theo phân cấp hành chính quốc gia dù diện tích được mở rộng hay thu hẹp do nhu cầu phát triển kinh tế và văn hóa xã hội của từng thời điểm lịch sử nhất định, thì những danh nhân văn hóa, những thành tựu kinh tế, chính trị vẫn đọng lại dấu ấn lịch sử trong những lát cắt đồng đại, giữ mãi niềm tự hào chính đáng, nó trở thành sức mạnh nội lực vĩnh cửu cho từng thế hệ kế tục.

 

Theo biên niên sự kiện, ngày 21/3/1890, Toàn quyền Ðông Dương Jules Piquet (Juy-lơ Pi-kê) ra Nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Bốn năm sau, ngày 28/11/1894, Toàn quyền Ðông Dương lại có nghị định mở rộng địa bàn tỉnh Thái Bình: cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà (thuộc phủ Tiên Hưng tỉnh Hưng Yên) sáp nhập vào tỉnh Thái Bình, lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà ở về hữu ngạn sông Luộc. Như vậy địa bàn tỉnh Thái Bình bao gồm phần đất của hai tỉnh Nam Ðịnh và Hưng Yên tạo nên.

 

Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện có Thái Bình địa dư ký, là cuốn sách đầu tiên viết về Thái Bình với tư cách là một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1926 nhà in Lê Văn Tân ở Hà Nội đã xuất bản sách “Ðịa dư các tỉnh Bắc kỳ” của nhóm tác giả Ðỗ Ðình Nghiêm - Ngô Vi Liễn - Phạm Văn Thư, có mục viết riêng về tỉnh Thái Bình. Sách “Tỉnh Thái Bình” (1933) của Dương Thiệu Tường đã có nhận xét: “Tuy mới thành lập, Thái Bình là một trong những tỉnh lớn của xứ Bắc kỳ.”

 

Nửa sau thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo các ngành, các cấp sưu tầm, dịch thuật, tổng kết, biên soạn khá nhiều tài liệu về mảnh đất và con người từ tỉnh đến huyện, xã làm tư liệu để giáo dục truyền thống lịch sử vẻ vang của quê hương. Kỷ niệm 125 thành lập tỉnh Thái Bình là một dịp nhìn lại và hướng tới tương lai; sao cho truyền thống tốt đẹp của văn hóa cổ của một miền quê đồng bằng ven biển tiếp tục được phát huy. Có như vậy địa danh tỉnh Thái Bình ngày càng trở thành một địa chỉ đỏ, một khuôn viên rạng rỡ, xứng đáng là “một tỉnh gương mẫu về mọi mặt.”

 

Nhận diện nét nổi trội trong tính cách để xây dựng con người mới với những chuẩn mực mới

Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin

 

So với nhiều địa phương khác trong khu vực châu thổ sông Hồng và toàn quốc thì tỉnh Thái Bình có những nét riêng về các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và dân cư. Những nét riêng đó đã tác động đến sự hình thành tính cách người Thái Bình.

Từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX trở về trước, kinh tế nông nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của Việt Namon>. Với vùng đất Thái Bình thì trong mọi thời kỳ lịch sử vẫn được coi là một vùng nông nghiệp điển hình, là “kho của, kho người”. Cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, Thái Bình vẫn cơ bản là một tỉnh nông nghiệp. Gần 80% cư dân Thái Bình vẫn là cư dân nông nghiệp, chủ yếu là nông dân. Người Thái Bình tuy có chung những thuộc tính cố hữu của người nông dân Việt Nam nhưng có lẽ, do những đặc điểm của quá trình hình thành đất đai và cư dân, do các yếu tố về vị trí địa lý, hoàn cảnh sống chi phối nên tính cách của cư dân Thái Bình cũng có những nét tiêu biểu đáng chú ý. Cần mẫn và năng động; quả cảm và cương nghị; hiếu học và giầu chí tiến thủ; nhạy bén với thời cuộc; dễ thích ứng với việc nghĩa và sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn  là những tính cách nổi trội của cư dân Thái Bình.

 

Tính cách của mỗi người nói riêng, tính cách mang tính truyền thống của từng cộng đồng nói chung đều có những mặt tích cực và mặt hạn chế. Vấn đề là, xác định rõ những giá trị tích cực để duy trì và phát huy, những hạn chế để khắc phục đối với từng biểu hiện cụ thể của các thành tố đã và đang tồn tại. Nếu nhận diện được chân xác, khách quan về sự nổi trội trong tính cách của người Thái Bình sẽ tìm được những căn cứ khoa học để xây dựng con người mới với những chuẩn mực mới phù hợp cuộc sống hiện hành mà vẫn mang hồn cốt của tính cách người Thái Bình.   

 

Kế thừa và phát huy những tố chất tinh hoa trong tính cách của các thế cha ông  khơi nguồn, dẫn mạch và trao truyền lại, trên cuộc hành trình gần 30 năm đổi mới, Ðảng bộ và nhân dân Thái Bình đã năng động tìm ra sức bật mới với những bước đi, cách làm mới. Những thành tựu  và cả những hạn chế, yếu kém của Thái Bình trong tiến trình đổi mới, hội nhập, xây dựng nông thôn mới có thể coi là một trong những thước đo về tính cách của người Thái Bình.

 

Nếu xét về cả 3 yếu tố: Tự nhiên, kinh tế và dân cư thì có thể khái quát là: từ truyền thống đến hiện tại, tỉnh Thái Bình vốn có 3 biển: biển Ðông - biển người - biển lúa. Trong các thời kỳ lịch sử của dân tộc, vị thế của 3 biển này đã được khẳng định. Vấn đề còn lại là, hiện nay và mai sau, khai thác tiềm năng, lợi thế của 3 biển này như thế nào để tỉnh Thái Bình sớm trở thành một tỉnh có nền nông nghiệp, công nghiệp hiện đại, tiếp tục xứng tầm là “kho của, kho người” của Việt Nam ở thời kỳ hội nhập và phát triển

 

Giá trị văn hóa, con người Thái Bình là yếu tố nội sinh xây dựng quê hương phát triển bền vững

TS. Lê Xuân Kiêu, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

 

Những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử là cơ sở hình thành nên con người, văn hóa Thái Bình, mảnh đất Thái Bình giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Những giá trị đó tạo nên sức mạnh tinh thần giúp cho con người Thái Bình vượt thoát khỏi nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ quê hương và đóng góp cho đất nước nhiều thành tựu to lớn, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Tài sản tinh thần ấy qua sự sàng lọc của thời gian mà trở thành di sản văn hóa để lại cho chúng ta ngày hôm nay với niềm tự hào về truyền thống quý báu của quê hương.

 

Trên nền tảng như vậy, sự nghiệp xây dựng con người mới, văn hoá mới ở Thái Bình suốt mấy chục năm qua đã và đang tạo nguồn lực con người mới, là tiền đề vững chắc để xây dựng phát triển quê hương. Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cũng như các địa phương khác trong cả nước, vấn đề đặt ra đối với Thái Bình là xây dựng, phát triển văn hóa, con người, tạo nguồn lực văn hoá, sức mạnh mềm cho sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn tới, thực hiện được mục tiêu tổng quát: phấn đấu đến năm 2020, Thái Bình cơ bản trở thành tỉnh có nền nông nghiệp, công nghiệp hiện đại.

 

Phát huy giá trị văn hóa, con người Thái Bình trong hội nhập và phát triển là xây dựng nguồn lực văn hóa, đó chính là yếu tố nội sinh mà cốt lõi là giá trị yêu nước, tinh thần cần cù sáng tạo và ham học hỏi của người Thái Bình, tạo nên sự cố kết về tinh thần, đồng thuận trong cộng đồng. Xây dựng con người Thái Bình trung thực, có năng lực, biết tích lũy nguồn lực văn hóa, tri thức khoa học công nghệ, tinh thần sáng tạo, tinh thần vì cộng đồng, đất nước, khả năng đối thoại, hợp tác, cùng chung sống với các cộng đồng khác để hội nhập, học  hỏi, tiếp thu và phát triển. Trên tinh thần tự phê phán, thế hệ trẻ hiện nay sẽ khắc phục tâm lý tự ti, dễ thỏa mãn với kết quả đạt được để hình thành nên khát vọng nâng cao tri thức, học tập suốt đời; biết suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm; có tư duy cởi mở với cái mới, không ngại đương đầu với thách thức; năng động, sáng tạo; nỗ lực tiếp cận và vận dụng những kiến thức tiên tiến nhất của khoa học, công nghệ thế giới phục vụ phát triển quê hương, đất nước; rèn luyện thể lực, nâng cao thể trạng; tu dưỡng, bồi bổ cả kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và đạo làm người.

 

Những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa, con người Thái Bình trong lịch sử chỉ được phát huy trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là nó không chỉ dừng lại ở trạng thái lý tưởng mà phải thẩm thấu vào trong lối sống của từng cá nhân, cộng đồng, chuyển hóa thành các hành vi trong các hoạt động và quan hệ ứng xử khi có một môi trường xã hội từ gia đình, nhà trường và cộng đồng lành mạnh và đồng bộ, nuôi dưỡng những giá trị đạo đức, để những giá trị đó định hướng cho lý tưởng sống của mỗi cá nhân. Trách nhiệm đó đang đặt lên vai những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị các cấp của tỉnh. Với tinh thần năng động, sáng tạo và khát vọng cống hiến cho quê hương đất nước  của những người con Thái Bình ở quê hương cũng như trên khắp miền Tổ quốc và cả ở nước ngoài, chúng ta có quyền hy vọng về một tương lai tươi sáng cho sự phát triển bền vững của quê hương, của từng cá nhân, từng gia đình để thực sự cuộc sống trên mảnh đất này luôn thái bình theo đúng nghĩa của nó.

 

Từng làng quê đều có bề dày truyền thống thượng võ

NCS Phạm Minh Thế, Khoa Lịch sử, Trường Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội

 

Do địa thế chiến lược của vùng đất ven biển với các cửa sông lớn như cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng), cửa Hộ (cửa sông Diêm), cửa Luộc (nơi sông Hồng đổ vào sông Luộc), từ cửa Tuần Vường đến Bố Hải xuống cửa Trà (các cửa sông Trà Lý)… nên trong lịch sử dựng nước và gữ nước, vùng đất nay thuộc tỉnh Thái Bình vẫn từng được xác định là một trong những cửa ngõ hiểm yếu của Tổ quốc. Ở mọi cuộc chiến tranh ái quốc, trải hàng nghìn năm đương đầu với mọi kẻ thù, cư dân trong các làng xã của Thái Bình từng sớm phải chống chọi với các đạo quân xâm lược và hải tặc từ đường biển  tiến vào các cửa sông để tiến đánh sâu vào nội địa. “Sóng cửa Trà, ma cửa Hộ” vốn từng là nỗi kinh hoàng của nhiều đạo quân xâm lược đến Việt Namon> thuở trước. Ngay từ những ngày đầu tiến quân ra đánh chiếm Bắc kỳ, thực dân Pháp cũng tiến vào cửa Ba Lạt, ngược dòng sông Hồng qua địa phận Thái Bình để tiến đánh Nam Ðịnh. Khi đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc thì Thái Bình cũng là nơi chịu trận, đối mặt đầu tiên. Chính vì vị thế chiến lược này mà nhiều lãnh tụ khởi nghĩa thời Bắc thuộc và các vương triều phong kiến đều chú ý xây dựng lực lượng bố phòng trên đất Thái Bình. Bước vào thời kỳ hiện đại, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc thì Thái Bình vẫn được xác định là một “pháo đài bên bờ biển Ðông”. Dĩ nhiên, từ lịch sử đến hiện đại để có một pháo đài lớn vững mạnh thì mỗi làng xã ở Thái Bình đã từng là những pháo đài nhỏ kiên cường.

           

Từ yếu tố khách quan do lịch sử sắp đặt, cư dân Thái Bình sinh tồn trên vùng đất là cửa ngõ đồng bằng sông Hồng (mà cũng là cửa ngõ của trung tâm kinh đô Thăng Long - Thủ đô Hà Nội). Từ thuở mở làng lập ấp, các thế hệ cư dân của mỗi cộng đồng làng xã ở Thái Bình  lúc nào cũng thường trực tư tưởng vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, đối đầu, đối mặt với mọi loại kẻ thù khi đến Việt Namon>. Hoàn cảnh ấy đã tạo nên bề dày truyền thống thượng võ của từng làng quê và ở mức độ khác nhau, mỗi làng xã đều đóng góp những “vốn riêng” của mình vào “vốn chung” trong kho tàng văn hoá quân sự của dân tộc Việt Nam và có lẽ nghệ thuật chiến tranh sông nước là một trong những nét nổi trội của văn hoá vũ trang trong vốn văn hoá làng của Thái Bình.

 

Ðiểm sáng về thu hút và trọng dụng nhân tài

Ông Nguyễn Quang Ân, Trung tâm UNESCO - thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Namon>

 

Các văn bản của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thái Bình đều  khẳng định: Chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài là một chủ trương lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Ðảng bộ tỉnh. Mục đích của chính sách ưu đãi thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng nhằm từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Ðảng và Nhà nước. Thực hiện chính sách ưu đãi thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và sử dụng người có tài năng là trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và địa phương trong tỉnh.

 

Thực hiện các quyết định, quy định, đề án của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, trong những năm qua việc thu hút trọng dụng nhân tài ở tỉnh Thái Bình đã đạt được một số kết quả nổi bật như: Số lượng người có trình độ đại học, trên đại học công tác tại tỉnh tăng lên qua các năm. Chất lượng đội ngũ cán bộ nhờ đó được nâng cao góp phần quan trọng trong các hoạt động của hệ thống Ðảng, chính quyền, đoàn thể; đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn tỉnh.

 

Ðãi ngộ của Thái Bình đối với trí thức là ở mức cao so với nhiều tỉnh và là lớn so với điều kiện kinh tế của tỉnh. Ðể Thái Bình luôn là một điểm sáng về thu hút và trọng dụng nhân tài, để chính sách trọng dụng nhân tài thu hút được nhiều người tài giỏi ở địa phương khác về Thái Bình công tác hoặc đầu tư phát triển kinh tế; để chính sách trọng dụng nhân tài khích lệ được nhiều con em Thái Bình hăng say học tập, nghiên cứu phát triển tài năng tại chính quê hương mình, cần hoạch định chiến lược trọng dụng, phát triển nhân tài một cách toàn diện, không chỉ ưu đãi về vật chất mà còn phải tạo ra môi trường sống, môi trường kinh tế - xã hội, điều kiện làm việc, học tập tốt hơn nữa.

 

Nhiều sáng tạo trong khai hoang, lập làng, xây dựng kinh tế mới

TS. Phạm Thị Nết, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

 

Ðối với người Thái Bình, việc khai hoang, lập làng, mở rộng diện tích canh tác đã trở thành một nhu cầu sinh kế, một triết lý phát triển và là một trong những truyền thống nổi trội, xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc, được phát huy cao độ trong cuộc vận động chuyển dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới trong và ngoài tỉnh thời kỳ hiện đại; đặc biệt là trong 3 thập niên cuối (60,70,80) của thế kỷ XX; thành quả và những bài học kinh nghiệm đúc rút từ lịch sử luôn là niềm cổ vũ lớn lao và được xem là nguồn nội lực quan trọng của các thế hệ người Thái Bình hôm nay .

 

Với lợi thế đất đai phù sa màu mỡ, điều kiện nước, khí hậu thuận tiện cho việc trồng lúa và hoa màu..., vùng đất Thái Bình là nơi  thu hút nhiều luồng dân cư từ bốn phương tới khai phá, lập làng. Tiêu biểu như công cuộc doanh điền, khẩn hoang của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ở bãi cồn Tiền được thực hiện nhanh chóng, chỉ trong 6 tháng đã lập nên 7 tổng với 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp; 18970 mẫu ruộng, 8000 mẫu đất (thổ ương, thổ cư), 2350 suất đinh, đưa tới sự ra đời của huyện Tiền Hải. Xem xét trên phạm vi toàn tỉnh, đến đầu thế kỷ XX, nhờ đẩy mạnh khai hoang, phục hóa, điều chỉnh địa giới hành chính và dân cư, nên số làng xã ở Thái Bình đã tăng lên đáng kể. Theo thống kê của Ngô Vi Liễn, năm 1928, tỉnh Thái Bình có 817 đơn vị hành chính cấp xã, với trên 1.200 thôn, làng, xóm, trại.

 

Ðây là thành quả lớn lao mà người dân Thái Bình đã đạt được dưới thời phong kiến trong quá trình mở đất lập làng, tổ chức cuộc sống. Thành quả này được các thế hệ người Thái Bình đời sau kế thừa, phát huy dưới nhiều hình thức, với những cách làm sáng tạo - mang dấu ấn đặc trưng riêng của người Thái Bình. Lịch sử đã ghi nhận những mô hình sáng tạo của làng khẩn hoang ven biển cuối thế kỷ XIX - XX; làng kinh tế mới ven biển những thập niên 60-70 của thế kỷ XX; làng kháng chiến kiểu mẫu thời kỳ chống Pháp; và đặc biệt là làng văn hiến, làng nghề, làng văn hóa... trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở Thái Bình.

 

Bên cạnh đó, Thái Bình còn đạt được nhiều thành quả trong thực hiện chuyển dân đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của Ðảng và Nhà nước. Từ năm 1960 đến năm 2005, Thái Bình đã chuyển được hàng chục vạn người đi xây dựng các vùng kinh tế mới ngoài tỉnh; nhờ đó, đã góp phần từng bước hạ thấp và giữ vững mức tăng dân số trong tỉnh, ổn định xã hội, tăng sản lượng lương thực... Ðiển hình như huyện Tiền Hải và huyện Thái Thụy, những năm 1978 - 1980 vượt lên dẫn đầu toàn tỉnh về số lượng người đi xây dựng  kinh tế mới ngoài tỉnh. Kết quả này chứng minh rằng: “Ðâu có đất bỏ hoang và có yêu cầu là nhân dân Thái Bình sẵn sàng đi khai thác” đã trở thành khẩu hiệu hành động của đại đa số cán bộ và nhân dân trong tỉnh.

 

  • Từ khóa