Thứ 6, 22/08/2025, 00:17[GMT+7]

Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020

Thứ 2, 06/07/2015 | 10:05:30
2,820 lượt xem

Nhà máy sản xuất Amon Nitrat tại xã Thái Thọ (Thái Thụy).

 

Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn, thách thức: tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi chậm, khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; những diễn biến phức tạp trên biển Đông cùng với những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu đã gây thiệt hại không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành quả quan trọng.

 

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, định hướng cho Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nhiệm kỳ tới là “Giữ vững đoàn kết thống nhất, tăng cường xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; huy động mọi nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đến năm 2020 Thái Bình cơ bản trở thành tỉnh có nền nông nghiệp, công nghiệp theo hướng hiện đại”.

 

Phần thứ nhất: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XVIII

 

I- VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI; QUỐC PHÒNG, AN NINH

1- Phát triển kinh tế

 

Nền kinh tế ổn định và tiếp tục tăng trưởng; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng hiện đại; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Hiệu quả đầu tư được nâng lên, đầu tư công từng bước khắc phục tình trạng dàn trải, chú trọng các công trình, dự án trọng điểm và phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. 

 

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) bình quân 5 năm ước tăng 8,04%/năm; năm 2015, GRDP bình quân đầu người đạt 29,5 triệu đồng (1.410 USD) gấp 1,8 lần năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng từ 25,9% (năm 2010) lên 32,6% (năm 2015), tỷ trọng dịch vụ từ 32,8% lên 34%, giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41,3% xuống 33,4%; tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng từ 21,9% (năm 2010) lên 31,8% (năm 2015), dịch vụ từ 15,7% lên 18,7%; giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 62,4% xuống 49,5%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm tăng từ 38.000 tỷ đồng (2005 - 2010) lên 106.392 tỷ đồng (2011 - 2015); kim ngạch xuất khẩu tăng từ 491 triệu USD (năm 2010) lên 1.270 triệu USD (năm 2015); thu ngân sách trên địa bàn từ 2.402 tỷ đồng (năm 2010) lên 3.319 tỷ đồng (năm 2015).

 

1.1- Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

 

Nông nghiệp, thủy sản phát triển toàn diện, chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của tỉnh đồng bằng ven biển và truyền thống thâm canh. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân 5 năm tăng 3,9%/năm, trong đó, nông nghiệp tăng 2,6%/năm; thủy sản tăng 8,5%/năm. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn được đẩy mạnh; kết cấu hạ tầng, trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất và mức độ cơ giới hóa được tăng cường. Cơ cấu cây trồng, mùa vụ và con vật nuôi có chuyển biến tích cực; năng suất, chất lượng và hiệu quả tăng lên rõ rệt; diện tích các giống lúa ngắn ngày từ 92,6% (năm 2010) tăng lên 96% (năm 2015), giá trị sản xuất bình quân trên 1ha canh tác từ 86,8 triệu đồng tăng lên 120,8 triệu đồng.

 

Giữ vững năng suất lúa trên 131 tạ/ha/năm, sản lượng thóc trên 1 triệu tấn/năm. Đã quy hoạch, xây dựng nhiều vùng cây màu và lúa chất lượng cao gắn với xây dựng nông thôn mới; có 143 “Cánh đồng mẫu” với diện tích 6.072ha. Sản xuất cây màu, cây vụ đông được mở rộng; năm 2015 đạt 65.700ha, tăng 3,4% so với năm 2010.

 

Chăn nuôi trang trại phát triển mạnh, gắn kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Năng lực chủ động kiểm soát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được tăng cường, khống chế kịp thời các dịch bệnh nguy hiểm, giảm thiểu thiệt hại gây ra. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi ước tăng bình quân 5,6%/năm. Năm 2015, có 630 trang trại, tăng 468 trang trại; tỷ trọng chăn nuôi tăng 5,4% so với năm 2010, chiếm 40,4% giá trị sản xuất nông nghiệp.

 

Sản xuất thủy sản phát triển khá mạnh cả nuôi trồng, khai thác và dịch vụ. Diện tích nuôi thủy, hải sản được mở rộng, năm 2015, ước đạt 15.352ha, tăng 1.926ha so với năm 2010; năng lực và sản lượng khai thác thủy sản tăng nhanh; tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản tăng từ 12,5% lên 16% trong tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Đã hoàn thành xây dựng 16 vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt với diện tích 618ha; 9 vùng nuôi trồng thủy sản nước lợ với diện tích 711ha.

 

Công tác phòng, chống thiên tai được đặc biệt chú trọng; đã hoàn thành nâng cấp trên 30km đê xung yếu, trực diện với biển; diện tích rừng phòng hộ tiếp tục được giữ vững, đã đầu tư trồng mới trên 500ha, góp phần quan trọng bảo vệ sản xuất, môi trường sinh thái và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

 

Xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả quan trọng. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông thôn mới. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã chỉ đạo xây dựng đề án, kế hoạch và kịp thời ban hành nhiều cơ chế, chính sách, đồng thời chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tạo được sự đồng thuận của nhân dân; huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, hiệu quả trong toàn tỉnh. 

 

Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn có bước chuyển biến rõ rệt; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; kết cấu hạ tầng được tăng cường; bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Hệ thống thủy lợi, giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa, trạm y tế, trạm cấp nước sạch, bãi xử lý rác thải... được đầu tư. Đã xây dựng và nâng cấp 4.714km đường giao thông trục chính nội đồng, đường giao thông nông thôn; 28 trạm bơm, 248 cống đập, 20 trạm cấp nước sạch; 94 trường trung học cơ sở, tiểu học và mầm non; 27 nhà văn hóa xã, 867 nhà văn hóa thôn, 171 trạm y tế, 44 chợ; 99 xã hoàn thành nâng cấp lưới điện nông thôn. Đến hết năm 2015, toàn tỉnh dự kiến có 165 xã (62,7%) đạt chuẩn nông thôn mới, 98 xã đạt 13 - 18 tiêu chí.

 

Tổng vốn đầu tư cho xây dựng nông thôn mới 5 năm đạt 8.000 tỷ đồng (tiền và quy tiền), trong đó, Trung ương và ngân sách tỉnh, huyện, xã hỗ trợ 2.855 tỷ đồng; nhân dân đóng góp 4.460 tỷ đồng, tự nguyện hiến đất gần 2.000ha; xã hội hóa 685 tỷ đồng.

 

1.2- Phát triển công nghiệp, xây dựng

 

Trước tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, khu vực và suy giảm kinh tế trong nước, các cấp, các ngành đã lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, giải pháp của Chính phủ, tập trung rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ổn định và đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh; chú trọng các sản phẩm công nghiệp chủ yếu, các doanh nghiệp có giá trị sản xuất lớn. Vì vậy, sản xuất công nghiệp, xây dựng đã vượt qua thời kỳ khó khăn, có bước phục hồi và tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng bình quân 5 năm tăng 12,7%/năm; trong đó, công nghiệp tăng 11,2%/năm, xây dựng tăng 18,2%/năm. Phát triển thêm một số sản phẩm mới như: Amon Nitrat, thiết bị điện và dây dẫn trong ô tô; bê tông thành mỏng, gạch không nung; nước giải khát, rượu cao cấp v.v...

 

Kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư, hoàn thiện. Công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh; chú trọng thu hút các dự án quy mô lớn, công nghệ, thiết bị tiên tiến và các ngành công nghiệp phụ trợ. 5 năm, có thêm 126 dự án sản xuất công nghiệp được cấp chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký trên 15,4 nghìn tỷ đồng; một số dự án quy mô lớn như: Trung tâm Điện lực Thái Bình, Nhà máy sản xuất Amnn Nitrat, Hệ thống thu gom và phân phối khí mỏ Hàm Rồng, Thái Bình, Dự án thăm dò, khai thác than... được triển khai và thực hiện bảo đảm tiến độ. Toàn tỉnh hiện có 540 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp với số vốn đăng ký 94,7 nghìn tỷ đồng, trong đó, có 385 dự án đang sản xuất với số vốn đầu tư trên 16 nghìn tỷ đồng, tạo việc làm cho trên 110 nghìn lao động. Tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp bình quân đạt 81,34%. Giá trị sản xuất trong các khu, cụm công nghiệp chiếm trên 50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.

 

Nghề và làng nghề được duy trì phát triển, một số làng nghề suy giảm được phục hồi; đã du nhập thêm một số nghề mới: dệt chiếu ni lông, móc sợi...; toàn tỉnh có 245 làng nghề được công nhận đạt tiêu chuẩn, tăng 26 làng nghề so với năm 2010, giải quyết việc làm ổn định cho 148 nghìn lao động. Giá trị sản xuất nghề, làng nghề chiếm 22% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Hoạt động khuyến công được thực hiện hiệu quả, đã hỗ trợ tích cực cho việc duy trì, mở rộng sản xuất, phát triển nghề và làng nghề.

 

1.3- Phát triển thương mại, dịch vụ

 

Sản xuất các ngành thương mại, dịch vụ duy trì ổn định và phát triển, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ bình quân tăng 8,5%/năm; tổng mức bán lẻ tăng 15,9%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng 20,9%/năm; năm 2015, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.270 triệu USD, gấp 2,6 lần, doanh thu dịch vụ du lịch ước đạt 200 tỷ đồng, tăng 69,5% so với năm 2010.

 

Hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, tích cực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm. Công tác quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường và thực hiện hiệu quả, góp phần bảo vệ sản xuất và tiêu dùng.

 

Kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Một số trung tâm thương mại, siêu thị, chợ, khách sạn cao cấp đã hoàn thành đưa vào khai thác có hiệu quả. Phát triển du lịch gắn với phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được chú trọng. Dịch vụ vận tải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... phát triển mạnh; năm 2015, tổng trọng tải các loại phương tiện ước 501.840 tấn, tăng 13,9%, số lượng vận chuyển hành khách ước 16,2 triệu lượt người, tăng 47%; tổng dư nợ cho vay nền kinh tế ước đạt 42.728 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần, doanh số cho vay ước đạt 241.000 tỷ đồng, tăng gấp 3,3 lần; sử dụng Internet ước đạt 27 thuê bao/100 dân, tăng 17 thuê bao so với năm 2010.

 

1.4- Về khai thác nguồn lực, thu hút đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

 

Công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước, khai thác và sử dụng các nguồn lực được thực hiện tích cực, hiệu quả. Đã tranh thủ được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương, tài trợ từ bên ngoài và huy động nguồn nội lực đạt kết quả cao; quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về tái cấu trúc đầu tư công, tăng cường quản lý đầu tư vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ; ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng giao thông, thủy lợi quan trọng, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; khắc phục đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp và tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản; bảo đảm chi ngân sách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Tổng thu ngân sách trên địa bàn 5 năm 2011 - 2015 đạt 16.716 tỷ đồng, tăng 7%/năm, trong đó, thu nội địa đạt 14.541 tỷ đồng, tăng 7,5%/năm. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm đạt 106.392 tỷ đồng, gấp 2,8 lần giai đoạn 2005 - 2010. 

 

Các cấp, các ngành đã chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính; đẩy mạnh xúc tiến thu hút đầu tư; nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cải thiện môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh. 5 năm đã thu hút 279 dự án đầu tư vào các lĩnh vực, với số vốn đăng ký 20,2 nghìn tỷ đồng, 16 dự án FDI với số vốn đăng ký 75,14 triệu USD; trong đó, 65 dự án đi vào sản xuất. Toàn tỉnh hiện có 784 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 104,5 nghìn tỷ đồng, trong đó, 448 dự án đi vào sản xuất; 53 dự án FDI còn hiệu lực với số vốn đăng ký 415,3 triệu USD; số lượng doanh nghiệp 4.369, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010, đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

Công tác quy hoạch và đầu tư, xây dựng được thực hiện tích cực; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Đã hoàn thành xây dựng, nâng cấp nhiều công trình hạ tầng quan trọng: trên 30km đê xung yếu, trực diện với biển; cầu Hiệp, cầu Diêm Điền, cầu Trà Giang, cầu Trà Linh, cầu Tịnh Xuyên, đường Đồng Châu (2,57km), đường 217 (12km), đường bờ Nam sông Kiên Giang (4,4km); Trung tâm Phát thanh và Truyền hình, Nhà Thi đấu đa năng, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Tâm thần, Nhà trung tâm nghiệp vụ kỹ thuật và các khoa nội trú Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Nhà kỹ thuật Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh; Làng trẻ em SOS, Đền thờ liệt sĩ tỉnh; 135km đường giao thông nông thôn thuộc dự án WB3; hệ thống nhà văn hóa thôn, trạm y tế xã, công trình nước sạch nông thôn và một số công trình văn hóa lịch sử tiêu biểu. Nhiều công trình lớn đã và đang được tập trung chỉ đạo, bảo đảm tiến độ: cầu qua sông Trà Lý (tại phường Hoàng Diệu) nối đường vành đai phía Nam Thành phố với quốc lộ 10, cầu Thái Hà, đường Thái Bình - Hà Nam, đường tỉnh 39 (từ thị trấn Thanh Nê đến thị trấn Diêm Điền), đường Thái Thủy - Thái Thịnh (7,95km); mở rộng quốc lộ 10 (5,5km), nâng cấp quốc lộ 39 đoạn Đông Hưng - Triều Dương và cầu Vô Hối - Diêm Điền (29km); Quảng trường Thái Bình và Tượng đài "Bác Hồ với nông dân", Bệnh viện Đa khoa 1.000 giường; hạ tầng Trung tâm Y tế tỉnh, Bệnh viện Y học cổ truyền, Bệnh viện Mắt, Trung tâm cấp cứu 115 v.v...

 

1.5- Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

 

Các cấp, các ngành đã tổ chức quán triệt, phổ biến và triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai, tài nguyên và bảo vệ môi trường. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khai thác tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội được chỉ đạo thực hiện chặt chẽ; đã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, huyện 5 năm 2011 - 2015.

Công tác quản lý nhà nước về đất đai, bảo vệ môi trường được tăng cường; chú trọng thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường ở các khu, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp và đô thị, nông thôn; thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật đất đai, bảo vệ môi trường, xử lý kịp thời các vi phạm. Có 80% cơ sở sản xuất từ trước năm 2011, 100% cơ sở sản xuất từ năm 2011 đến nay có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đạt 100%, ở nông thôn đạt 80%.

 

2- Về văn hóa - xã hội

2.1- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ

 

Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên; giữ vững và nâng cao kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và xóa mù chữ; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và tỷ lệ học sinh đạt giải quốc gia luôn đứng tốp đầu cả nước. Bình quân hằng năm đào tạo chuyên nghiệp 6.100 lao động, đào tạo nghề 33.500 lao động; đến năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%, trong đó đào tạo nghề 41,5%. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề được tổ chức lại một bước; đã thực hiện tái cấu trúc Trường Đại học Thái Bình trên cơ sở tiếp nhận cơ sở phía Bắc của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh; hoàn thành việc sắp xếp lại các trung tâm giáo dục thường xuyên và trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp huyện, Thành phố. Cơ sở vật chất trường, lớp được đầu tư xây dựng, nâng cấp theo chuẩn quốc gia; đến năm 2015, có 10.095 phòng học được kiên cố hóa, tăng 27%, 681 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 24,5% so với năm 2010. Một số nhiệm vụ trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về giáo dục, đào tạo đã được tổ chức triển khai, đạt kết quả bước đầu; đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực theo chuẩn hóa; 100% giáo viên các cấp học đạt chuẩn; công tác quản lý giáo dục, đào tạo có bước chuyển biến tích cực, đã chấn chỉnh tình trạng lạm thu trong các trường học. Công tác xã hội hóa giáo dục được quan tâm chỉ đạo và thu hút sự chăm lo của toàn xã hội.

 

Hoạt động khoa học, công nghệ có nhiều chuyển biến, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực; nhiều chương trình, đề tài dự án đã góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ được đổi mới. Hợp tác về khoa học, công nghệ được đẩy mạnh; thị trường khoa học, công nghệ dần được hình thành và phát huy tác dụng.

 

2.2- Phát triển văn hóa, xây dựng con người

 

Sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người được quan tâm đúng mức. Hệ thống thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống, di sản văn hóa lịch sử được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Xã hội hóa trong lĩnh văn hóa ngày càng mở rộng, góp phần thiết thực phát triển văn hóa và du lịch. Văn học, nghệ thuật có nhiều tiến bộ; hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình sản phẩm và phương tiện kỹ thuật, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ngày càng phát triển, có chiều sâu, đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Việc xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng hơn, góp phần tích cực giáo dục và hình thành nhân cách con người, xây dựng nền tảng tinh thần xã hội lành mạnh. Toàn tỉnh có 80% gia đình, 60% thôn, tổ dân phố, 70% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa.

 

Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh, giáo dục thể chất trong trường học tiếp tục được tăng cường. Thể thao thành tích cao có bước phát triển; cơ sở vật chất phục vụ sự nghiệp thể dục thể thao của tỉnh từng bước được hiện đại hóa.

 

2.3- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân

 

Công tác phòng, chống dịch bệnh, các chương trình mục tiêu y tế được chủ động triển khai và thực hiện có hiệu quả; chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến y tế được nâng lên, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được mở rộng, đã triển khai thực hiện ở tất cả các trạm y tế xã, phường, thị trấn. Đã triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS và 8 trung tâm y tế huyện, thành phố. Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong khám và điều trị bệnh; nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu được thực hiện tại tỉnh trong các chuyên ngành như: tim mạch, ung bướu, chấn thương chỉnh hình, nhi, chạy thận nhân tạo. Hệ thống y tế được kiện toàn cả về tổ chức và nhân lực; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư, nâng cấp; nhiều trạm y tế xã được đầu tư xây mới để đạt chuẩn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế được tăng cường; trình độ, năng lực cán bộ ở cả 3 tuyến tỉnh, huyện và cơ sở được nâng lên. Đến năm 2015, có 31 giường bệnh và 8,5 bác sĩ/vạn dân, 85% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 91% trạm y tế có bác sĩ.

 

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc trẻ em đạt được nhiều kết quả. Xã hội hóa hoạt động y tế được đẩy mạnh; đến năm 2015, có 204 cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập, tăng 10,3% so với năm 2010.

 

2.4- Về giải quyết việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội

 

Các cấp ủy đảng, chính quyền luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách đối với người và gia đình có công; các chính sách xã hội, chương trình giải quyết việc làm, giảm nghèo đạt được nhiều kết quả, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Số lao động được giải quyết việc làm hằng năm đều tăng, bình quân khoảng 32 nghìn lao động/năm, trong đó xuất khẩu 3.000 lao động, mỗi năm chuyển về tỉnh trên 1.000 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 còn 2,5%, giảm 6,66% so với năm 2010; đã hỗ trợ xây dựng, nâng cấp trên 5.500 nhà ở cho người có công, người nghèo; hoàn thành một số dự án nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp; tổ chức tốt việc phong tặng, truy tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho 3.034 mẹ trong tỉnh. Các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng; số người tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh, đến năm 2015, có 1.286.000 người, chiếm 75% dân số toàn tỉnh.

 

3- Về quốc phòng, an ninh

 

Công tác quân sự, quốc phòng địa phương được tăng cường; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, về vị trí, vai trò của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới đầy đủ hơn. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường; kết hợp chặt chẽ kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội.

Đã chủ động nắm tình hình, dự báo và kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các đối tượng cơ hội chính trị, không để bị động, bất ngờ, hình thành tổ chức chính trị phản động ở địa phương; giữ vững an ninh biên giới biển. Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ. Hoàn thành công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện và diễn tập chiến đấu trị an cụm xã.

 

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, an toàn giao thông được triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả. Đã kiềm chế gia tăng tội phạm, tai nạn giao thông; thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng pháo, vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

 

Đạt được những kết quả về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh nêu trên là do các cấp ủy, chính quyền, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân đã có nhiều nỗ lực, sáng tạo, triển khai thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đầu tư công và kiểm soát lạm phát; không điều chỉnh chỉ tiêu phấn đấu mà tăng nhiệm vụ, giải pháp, quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; đã ban hành và thực hiện nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư vào tỉnh. Chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế đi đôi với phát triển và nâng cao chất lượng các lĩnh vực văn hóa, xã hội; giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc; thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công, các chính sách an sinh xã hội.

 

Về những hạn chế, yếu kém:

 

- Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế chưa đạt mục tiêu Đại hội đề ra: tốc độ tăng trưởng GRDP, giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động…

 

- Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp; hàm lượng tri thức, khoa học - công nghệ và lao động có kỹ năng chưa nhiều. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, của từng ngành hàng, sản phẩm còn hạn chế.

 

- Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, hiệu quả chưa cao, thiếu bền vững. Xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương vẫn nặng về xây dựng kết cấu hạ tầng. Phần lớn cơ sở công nghiệp hiện có quy mô nhỏ; các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát triển. Kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu lao động chưa thích ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tốc độ đô thị hóa chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ô nhiễm môi trường ở một số nơi chậm được giải quyết. 

 

- Chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo có mặt còn hạn chế; đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm; hợp tác, liên kết khoa học, công nghệ với sản xuất còn hạn chế. Tình trạng quá tải trong khám chữa bệnh vẫn còn xảy ra tại một số bệnh viện tuyến tỉnh. Việc phát huy một số giá trị văn hóa phi vật thể còn hạn chế. Tỷ lệ hộ cận nghèo còn cao; chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng. Việc làm và đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. 

 

- Công tác nắm và dự báo tình hình có lúc, có việc còn hạn chế. Tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông còn tiềm ẩn phức tạp. Chất lượng hoạt động tư pháp tuy đã được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ở một số địa phương, đơn vị, công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân chưa được quan tâm đúng mức; chưa gắn kết việc tiếp dân với giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

 

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:

 

Về khách quan: Nền kinh tế xuất phát điểm thấp, chịu tác động của khủng hoảng chính trị, kinh tế thế giới và khu vực. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi của thời tiết, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu; diện tích canh tác bình quân đầu người thấp. Ngân sách hạn hẹp, thiếu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong khi đó, phải dành nhiều nguồn lực khắc phục hậu quả do cơn bão số 8 năm 2012 gây ra.

 

Về chủ quan:

 

- Nhận thức về yêu cầu, nhiệm vụ của cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ; việc xây dựng và triển khai thực hiện đề án chưa kịp thời. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp chưa có chiến lược rõ ràng, nhất là những ngành trọng tâm, trọng điểm; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới.

 

- Một số ngành, địa phương, đơn vị chưa nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh địa phương. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao.

 

- Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến phát triển văn hóa, xây dựng con người và giải quyết các vấn đề xã hội. Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội còn hạn chế.

 

- Sự hướng dẫn, phối hợp của một số ngành cấp tỉnh, cấp huyện đối với cơ sở còn hạn chế; việc thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa kịp thời và thường xuyên. Một số cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế về trình độ, năng lực, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

 

II- VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1- Về xây dựng Đảng

 

Công tác xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các mặt; đã quán triệt, tuyên truyền, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, kịp thời, hiệu quả các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đạt được những kết quả quan trọng.

 

Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở các cấp, các ngành được chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc, đúng mục đích, yêu cầu, nội dung và quy trình. Đã chỉ đạo thực hiện toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp khắc phục khuyết điểm, hạn chế sau kiểm điểm, tạo chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; khắc phục cơ bản những hạn chế, khuyết điểm, nhất là trong việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, công tác cán bộ và cơ chế, chính sách. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

Công tác tư tưởng được tăng cường; nội dung, phương thức có nhiều đổi mới, tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả được nâng lên; nắm bắt và kịp thời định hướng tư tưởng, góp phần tạo sự thống nhất nhận thức, hành động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan, đơn vị. Duy trì nền nếp, đổi mới phương pháp thông tin và giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng. Công tác tổng kết thực tiễn được tăng cường và nâng cao chất lượng, đáp ứng có hiệu quả việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Công tác biên soạn và phát hành lịch sử đảng bộ các cấp được quan tâm thực hiện.

 

Công tác tổ chức xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và có nhiều đổi mới. Chú trọng công tác cán bộ, quản lý và nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố các tổ chức cơ sở đảng yếu kém, phát triển tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ và chi bộ có chuyển biến rõ nét. Công tác phát triển đảng viên được các cấp ủy đảng quan tâm; số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, sinh viên, người có đạo, người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước. Đã kết nạp 11.954 đảng viên, tăng 1,07% so với nhiệm kỳ trước; trong đó, tỷ lệ đảng viên là công nhân 6,8%, tăng 2,4%; chủ doanh nghiệp tư nhân 0,09% (11 đảng viên); đảng viên mới kết nạp bình quân 29,3 tuổi, giảm 0,2 tuổi so với nhiệm kỳ trước.

 

Nhiều quan điểm, chủ trương, nguyên tắc, giải pháp của Đảng về công tác cán bộ được vận dụng sáng tạo; đã ban hành các quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm và minh bạch trong đánh giá, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ; luân chuyển, bố trí cán bộ chủ chốt cấp huyện không phải là người địa phương; Quy định và thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh. Đã hoàn thành rà soát, bổ sung, xây dựng quy hoạch cấp uỷ, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giai đoạn 2010 - 2015 và 2015 - 2020. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ cơ bản được thực hiện theo quy hoạch. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị.

 

Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng được tăng cường, phát huy hiệu lực, hiệu quả rõ nét trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đã ban hành và chỉ đạo thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Tích cực đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng công tác tham mưu giúp cấp ủy xây dựng, thực hiện toàn diện chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát; chủ động nắm tình hình, phát hiện và kịp thời xử lý khi có dấu hiệu vi phạm. Năm năm (2011 - 2014), đã xử lý kỷ luật 24 tổ chức đảng, 884 đảng viên. 

 

Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới, đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền vận động, tập hợp nhân dân thực hiện đúng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ trương của địa phương và tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; chỉ đạo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và xây dựng nông thôn mới.

 

Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng tiếp tục được tăng cường; đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn của cấp ủy với các ngành trong khối nội chính; kịp thời kiện toàn tổ giúp việc các huyện, thành ủy về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng. Đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác cải cách tư pháp gắn với cải cách hành chính; thực hiện tốt sự phối hợp trong các hoạt động tố tụng, công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Chất lượng các khâu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp được nâng lên, bảo đảm đúng người, đúng tội, không có trường hợp bị xử oan, sai. Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có chuyển biến tích cực; hạn chế tình trạng khiếu tố đông người, vượt cấp.

 

Phương thức lãnh đạo của cấp ủy được đổi mới, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời, phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ tỉnh tới cơ sở được thực hiện tích cực. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, trách nhiệm của người đứng đầu; coi trọng vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Có nhiều đổi mới trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương; đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tăng cường kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết.

 

2- Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

 

Hội đồng nhân dân các cấp thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt hoạt động, đặc biệt từ khi có Chỉ thị số 08-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng đối với việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp”. Việc chuẩn bị và tổ chức các kỳ họp, quyết định kịp thời, đúng đắn các vấn đề quan trọng của địa phương theo luật định ngày càng rõ nét và thực chất hơn. Hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri được tăng cường với nhiều hình thức theo chuyên đề, nhóm đối tượng, địa bàn dân cư hoặc theo yêu cầu của thực tiễn cuộc sống; vì thế, đã kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý những vấn đề thiếu sót, bất cập trong quá trình thực thi công vụ và giải tỏa nhiều bức xúc của nhân dân. Hoạt động chất v

  • Từ khóa