Thứ 6, 29/08/2025, 03:42[GMT+7]

Ngày xưa sóng sánh cầu ao

Thứ 6, 05/10/2012 | 08:26:50
5,069 lượt xem
Ngày xưa là khoảng thời gian cách đây tới nửa thế kỷ. Ngày xưa, cùng với những cảnh vật, nét đẹp bình dị, dân dã của cây đa, giếng nước, sân đình; của những bóng dừa, bóng cau và của những rặng tre bốn mùa xanh mướt, ríu rít tiếng chim... Chiếc cầu ao muôn đời hiện hữu, gắn bó máu thịt với cuộc sống của mọi thế hệ, lớp người ở các vùng quê.

Ngày xưa, ở mọi làng trên khắp đất nước ta, từ ao của làng đến ao của các gia đình đều có chiếc cầu ao truyền thống. Cầu ao trước ngôi đình làng đều khá bề thế và kiên cố. Nó thường được xây bằng gạch Bát Tràng - một loại gạch to dầy, vuông vức, mỗi cạnh chừng gang rưỡi, màu xám chắc; hoặc được ghép bằng những phiên đá xanh, mặt nhẵn lỳ, to cỡ cánh cửa bức bàn, theo từng bậc. Trên hai bên bờ cầu ao làng thường được trồng cây đa hoặc cây si, lâu năm thành cổ thụ, cành lá xum xuê, tỏa bóng rợp mát cả một vùng.

Ngày ngày, nơi cầu ao làng thường khá tấp nập và rôm rả; nhất là vào những tháng mùa hè. Sau giờ làm đồng, bà con thường tạt vào cầu ao làng nghỉ mát, rửa chân tay. Những tối trăng thanh gió mát, mọi người thường tụ tập nơi cầu ao làng hóng mát, tào lao đủ thứ chuyện trên đời và thưởng thức tiếng sáo diều vi vút giữa tầng không. Nơi đây cũng là chỗ, hằng ngày bọn trẻ đến trèo cây bắt bọ đa, hái những quả đa, quả si chín mọng lèn đầy túi áo, đem về bầy đồ hàng và nơi đây cũng là chỗ lý tưởng của những chàng trai, cô gái đến tuổi yêu đương, dẫn nhau tới, ngồi bên gốc cây tình tự.

Khác với cầu ao làng, những chiếc cầu ao của các gia đình có độ bề thế và hình dáng muôn vẻ. Với những gia đình giầu có, chiếc cầu ao - thường được vỉa bằng gạch chỉ, xây thành từng bậc, theo độ dốc từ mặt sân tới sát đáy ao. Hai bên cầu ao, tường bao được tạo dáng hình rồng uốn lượn và hai đầu của tường bao là chiếc trụ đấu hình búp sen xinh xắn. Với những gia đình “thường thường bậc trung”, chiếc cầu ao thường được làm bằng phiến gỗ dày chắc, dài chừng hai, ba mét, rộng khoảng đôi - ba gang tay; hoặc là chiếc bè ghép bằng những đoạn gốc tre già, thẳng. Đầu ngoài của phiến gỗ hoặc bè tre được đỡ bởi chiếc then sắt xuyên qua hai chiếc cọc to chắc, đóng xuống đáy ao, còn đầu trong được kê lên tảng đá hoặc chiếc bệ gạch. Còn với những gia đình nghèo khó, chiếc cầu ao chỉ là cái gốc cây cổ thụ được cưa bằng phẳng, hoặc là những cục đá. Những viên gạch Bát Tràng cũ... được xếp, ghép với nhau thành từng bậc...

Những chiếc cầu ao đó tuy đơn giản, dân dã nhưng cũng khá vững chãi, thuận tiện. Trên bờ những chiếc cầu ao của các gia đình thường rợp bóng dừa, bóng mít, bóng sung. Những trưa hè nóng như đổ lửa, dưới bóng râm quanh cầu ao nhà, thường tụ tập cả gia đình. Những ông bố thường ra đó ngồi chẻ lạt, vót nan, đan rổ rá; những bà mẹ thường ngồi tranh thủ vá áo quần; còn những cô cậu choai choai, mình trần, đem chiếc cần câu bằng ngọn trúc ngồi câu cá. Mỗi khi giật được con mài mại, săn sắt đuôi cờ, hoặc con rô gion, lòng đong bụng đỏ, cả bọn lại reo mừng, cười phô cả hàm răng sún.

Ngày xưa, từ ao làng đến ao của các gia đình thường chỉ thả bèo ong, bèo tai chuột; họa hoằn mới có nhà thả bèo cái để nuôi lợn. Ngăn cách giữa khoảng nước của cầu ao với lớp bèo là bè rau muống tía. Khi công việc bận mải, không có thời gian chợ búa, chỉ cần hái quáng quàng vài nắm rau muống nơi cầu ao, luộc chấm với tương hoặc nước mắm cua, cả gia đình cũng đủ thức ăn qua bữa. Do môi trường trong sạch, nên quanh năm nước ao trong leo lẻo và mát rượi.

Suốt bao đời, chiếc cầu ao luôn gắn bó với mọi sinh hoạt của con người ở mỗi gia đình. Hằng ngày, cầu ao là nơi vo gạo, rửa rau, tắm rửa, giặc giũ. Mỗi khi đi làm đồng về, mồ hôi nhễ nhại, chân tay lấm láp, mọi người lại ào ra cầu ao. Được khỏa nước trong mát, con người bỗng tỉnh táo, khỏe khoắn hẳn ra. Cứ chiều chiều, những cô cậu còn “thò lò mũi xanh”, mình trần như nhộng, da sạm nắng, mặt mày lem luốc, được mẹ xách ra cầu ao, dùng chiếc gáo dừa, vục nước xối khắp người, chỉ một loáng đã sạch bóng. Những đêm trăng lồng lộng, sau một ngày lao động vất vả, các cô gái và những bà mẹ trẻ thường rủ nhau ra “tắm tiên” ở cầu ao nhà. Ánh trăng vàng rượi luồn qua kẽ lá, quét trên những làn da trắng lấp lóa, cùng với những tiếng đấm nhau thì thụp và những tiếng cười khúc khích... làm sóng sánh, xao động cả không gian và mặt nước cầu ao.

Từ thuở ấu thơ đến khi về với tổ tiên, mọi lớp người của các vùng quê luôn luôn gắn bó, sẻ chia với chiếc cầu ao. Ngày xưa đã thành dĩ vãng. Năm tháng trôi qua, số dân trong làng tăng lên gấp bội. Những rặng tre, bóng sung, bóng mít và những tán cau, tán dừa... cứ vắng dần. Nhiều cái áo - kể cả ao làng đã bị san lấp để làm nhà, xây trường học. Những cái ao còn sót lại ken đặc bèo bồng, ngập ngụa rác rưởi và chứa đầy nước thải. Hầu hết các gia đình trong làng đã dùng nước giếng khoan, nước mưa chứa trong bể khối. Cả làng vắng bóng những chiếc cầu ao.

Cho đến bây giờ và mãi mãi sau này, với lớp người luống tuổi, hình ảnh chiếc cầu ao - một nét văn hóa đời thường và cũng là nét hồn quê đất Việt, với quầng nước sóng sánh, lao xao, với những tiếng cười khúc khích giữa đêm trăng... chỉ còn là hoài niệm khắc sâu trong ký ức, tâm khảm của con người.

Anh Nguyên

(Ðồn Xá, Quỳnh Hồng, Quỳnh Phụ)

 


 
  • Từ khóa