Thứ 5, 25/04/2024, 23:20[GMT+7]

Chuyện ngoài chính sử về một ông nghè

Thứ 6, 12/05/2023 | 18:56:56
1,324 lượt xem
Thời xưa, danh tính của những ông Nghè (Tiến sĩ) được khắc ghi trên bảng vàng, bia đá. Nếu có công tích thì sử sách lưu truyền. Ngoài ra, còn có các giai thoại về tài trí, khí tiết, phẩm hạnh hoặc về cá tính của một số ông Nghè xuất chúng như những chuyện ngoài chính sử. Ông Nghè Nguyễn Bá Dương (1740 - 1785), quê làng Nguyên Xá, nay là xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng là một trong những trường hợp có khá nhiều giai thoại lưu truyền, trong đó có những chuyện đã được Vũ Phương Đề chép trong sách Công dư tiệp ký hoặc Thành Thăng đã chép trong Giai thoại văn chương Thái Bình.

Làng quê Nguyên Xá (Đông Hưng). Ảnh: Trung Hiếu

Có khá nhiều giai thoại kể về Nguyễn Bá Dương là từ tuổi ấu thơ đã nức tiếng là thần đồng, thông minh, hay chữ, học giỏi nổi tiếng trong vùng. Lại có giai thoại truyền là vì nhà nghèo nên Bá Dương phải đi ở giúp việc cho nhà một thầy đồ. Hàng ngày, ông vừa làm việc vừa học lỏm mà biết chữ. Dù nhà Bá Dương thuộc dạng nghèo nhất làng nhưng không vì thế mà ông tự ti, ngược lại rất tự phụ với tài năng của mình, tính tình bộc trực, yêu ghét phân minh, dân tình không ai dám khinh khi...

Tương truyền, khi còn là học trò, có lần đi ngang qua phủ đệ của một viên quan to trong triều, Bá Dương dừng lại đứng ngắm dãy tường bao đắp nổi sơn thủy sống động, kỳ công. Khi đang ngắm cây tùng trồng trên đá bên tường thì viên quan nhìn thấy bèn thử tài ứng đối và bảo Bá Dương hãy vịnh một bài về cây tùng. Không hề e ngại, cậu học trò Nguyễn Bá Dương liền cầm bút viết rất nhanh:

Thạch thượng thanh tùng bách xích trường,
Phi hoa mãn động thủy sinh hương,
Đinh ninh tiểu tử hưu kinh phạt,
Lưu thủy tha niên tác đống lương.

Dịch thơ:
Trăm thước thông trên đá vững vàng,
Hoa phô đầy động nước sinh hương,
Đinh ninh dặn chú tiều đừng đẵn,
Dành để mai sau hóa cột rường.

Bài thơ tài tình ở chỗ Bá Dương vừa tả thực cây tùng trên đá theo yêu cầu của viên quan vừa tự ví mình với cây tùng vững vàng, vươn thẳng, là “rường cột” tương lai của quốc gia, sẽ phò vua, giúp nước. Thấy chú bé quê mùa mà chí lớn, lại tài năng, viên quan xuýt xoa khâm phục và tặng luôn 5 quan tiền. Về sau, bài thơ được đặt tiêu đề là “Thạch tùng”, tức “Cây thông” đá gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bá Dương.

Lại có giai thoại lưu truyền là Bá Dương tuy nhà nghèo nhưng tính tình phóng khoáng, hay thơ và thích uống rượu nên “thi tửu song hành” từ thuở nhỏ. Khi lên kinh đô theo học, thói quen ấy cũng không thể bỏ. Vì không có tiền nên Bá Dương hay uống chịu rượu của bà bán rượu kẻ Mơ thuộc Hoàng Mai, Thăng Long. Uống rượu chịu mãi rồi số tiền ghi nợ đã lên đến chín đồng. Năm lần bảy lượt bà bán rượu đòi tiền rượu vì sợ ông “bùng” nhưng khổ nỗi Nguyễn Bá Dương đâu có xu nào trong túi mà trả. Bực lắm, lại là dân buôn nên nào có kiêng nể chi ai, bà bán rượu la lối đòi lột áo trừ nợ. May sao cũng lúc ấy có cô gái cũng làm nghề bán rượu cùng quê với bà kia thấy anh khóa nghèo bị đòi lột áo, động lòng trắc ẩn nên can ngăn bà bán rượu cùng làng. Nhưng can mãi cũng không xong, liền rút ruột tượng ra đếm đủ chín đồng đưa cho bà kia, rồi quẩy gánh đi luôn.

Được một người không hề quen biết trả tiền nợ cho, tuy hổ thẹn nhưng Nguyễn Bá Dương đã chạy theo cô gái cảm ơn, lại hỏi tên tuổi để sau đáp đền. Cô gái xua tay mà đáp:
- Tôi thấy chàng là học trò, vì rượu chè mà bị xấu hổ vì một người đàn bà, không đành lòng nên trả hộ thôi, không có ý mong được báo đền.

Nói xong cô quẩy gánh đi thẳng mà cũng chẳng xưng danh tính. Áy náy trong lòng, Nguyễn Bá Dương mới hỏi thăm tung tích, biết được cô gái là người kẻ Mơ. Cũng kể từ dạo ấy, lấy làm thẹn với bản thân chưa nên công danh mà đã bê tha, Nguyễn Bá Dương đã lên trấn Sơn Tây trọ học trong nhà một hào trưởng, ngày đêm chăm lo đèn sách.

Nhờ trí thông minh và siêng năng ôn luyện nên chỉ mấy tháng sau đó Nguyễn Bá Dương dự kỳ thi Hương đã đỗ Cử nhân. Với các nho sinh khác thường phải mất hàng chục năm nấu sử sôi kinh. Tiếp đến kỳ thi Hội khoa Bính Tuất (1766) đời vua Lê Hiển Tông, Bá Dương đã đỗ Tiến sĩ. Thường thì khi thi đỗ, các vị Tiến sĩ tân khoa đều có kẻ hầu người hạ, võng lọng xênh xang nhưng vì nhà nghèo nên Nguyễn Bá Dương vẫn lẻ loi một mình một bóng về làng Nguyễn để vinh quy bái tổ.

Vào thời điểm ấy, danh tiếng của ông Nghè tân khoa Bá Dương được nhiều người chốn kinh kỳ biết đến. Có bà quận chúa con chúa Trịnh biết tin ông đỗ, liền lệnh sai người đem kiệu đến đón, lại đưa mấy nàng thiếu nữ là con và cháu gái ra tùy nghi cho xem mặt, ưng ai cho kết duyên người ấy. Lúc này, Nguyễn Bá Dương vẫn còn nhớ đến cô gái kẻ Mơ giúp mình thuở trước, bèn nói với quận chúa:
- Xin quận chúa thứ tội, kẻ bần hàn này chỉ muốn kết duyên với cô bán rượu kẻ Mơ thôi! Không dám vì được vinh hoa phú quý mà phụ nghĩa khi xưa.

Tác thành mãi không được, quận chúa đành thuận lòng, cho người về đất Hoàng Mai đón cô bán rượu kẻ Mơ ra làm vợ chính của Bá Dương, còn một cô cháu gái quận chúa được làm vợ thứ.

Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Bá Dương được bổ dụng chức Hàn lâm viện Thị  chế sau thăng đến Tế tửu Quốc tử giám (đứng đầu trường Giám). Truyền rằng ông rất được chúa Trịnh Sâm nể vì, trọng dụng và đã giao cho ông giữ việc hình án ở Ái Châu (Thanh Hóa).

Vào thuở ấy, chúa Trịnh Sâm mê đắm và sủng ái sắc đẹp của chính cung là Tuyên phi Đặng Thị Huệ, nên Tuyên phi muốn gì, chúa cũng đều y theo. Được thể, Tuyên phi để mặc cho họ hàng, tay chân của mình làm những việc lộng càn.

Khi Nguyễn Bá Dương vào Ái Châu xem xét việc hình án thì thấy viên quan tên Mỗ chuyên coi việc kiện tụng, là vây cánh của Tuyên phi Đặng Thị Huệ nên lấy việc xét xử để tham nhũng tiền của các đương sự. Chứng kiến hành động ăn của đút ngang nhiên của tên Mỗ, Bá Dương thẳng tay, ra lệnh cho bắt và buộc phải nộp lại số tiền đã ăn hối lộ bấy lâu, nếu không sẽ nọc ra đánh cho đến chết. Tên Mỗ sợ quá, phải nộp số tiền đã tham ô là bốn trăm lạng vàng. Bá Dương lệnh cho giải hắn về kinh cùng với số vàng để chúa xét xử.

Về đến Thăng Long, Nguyễn Bá Dương cứ thực tình tâu lên với chúa Trịnh Sâm. Khi tờ khải được đưa đến chúa Trịnh, thì việc của tên Mỗ cũng được tay chân bẩm báo chuyện này với Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi liền vào ngay trong phủ kêu khóc với Trịnh Sâm rằng, tên Mỗ bị oan tình, ức hiếp. Chúa Trịnh Sâm dù sủng ái chính cung lắm nhưng cũng phải lắc đầu mà chỉ vào bốn trăm lạng vàng đang để trên khay rồi nói:
- Nàng nhìn xem, số vàng hắn ăn của đút hiện có đây, vậy còn oan ức gì nữa mà kêu với xin.

Chung cục, tên Mỗ phải chịu tội theo luật định. Sau việc đó, dân chúng tứ trấn truyền nhau vui mừng khôn xiết vì Bá Dương trừng trị được tên quan tham khi xử việc hình án theo quan niệm “không có vùng cấm”.

Còn có khá nhiều giai thoại về khí tiết và nhân cách của quan Nghè Nguyễn Bá Dương đến nay vẫn nguyên giá trị.

Nguyễn Thanh
(Vũ Quý, Kiến Xương)

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày