Thứ 6, 09/08/2024, 03:15[GMT+7]

Ðiệu rơkel giữa cao nguyên đại ngàn

Thứ 7, 16/06/2012 | 11:40:13
2,206 lượt xem
Nắng khỏa tràn vào gió. Con đường quầng bụi đỏ. Lũ trẻ như sinh ra từ đất, hồn nhiên và chân trần. Cụ già trầm mặc dáng núi. Những phụ nữ địu con lên rẫy, neo vọng ước trong tiếng chim gù xanh thẳm. Mùi rừng rú, mùi ngai ngái cỏ cây, mùi hoa cà-phê nồng nồng phả, mặc sức phô diễn trên nền trời. Và theo đó, tôi đến nhà chị Ma Tham - Nghệ nhân trình tấu rơkel (kèn bầu) của làng Chu Ru ở plei (buôn, làng) Ma Ðanh thuộc xã Tu Tra (Ðơn Dương, Lâm Ðồng)...

Biểu diễn rơkel trong lễ hội mừng lúa mới của đồng bào Chu Ru.

Biết tôi muốn tìm hiểu về chiếc rơkel, chị Ma Tham vui vẻ bảo em gái sang nhà bố mượn, rồi bắt đầu trình tấu và diễn giải. Này là điệu Con sóc (Pro), gửi gắm thân phận người con không có cha, có mẹ, sống thui thủi một thân một mình, đơn chiếc giữa rừng sâu, chỉ biết bầu bạn cùng con chim, con sóc, kiếm được quả gì thì ăn cùng nhau. Giai điệu chậm, buồn, xa vắng, nao lòng... Này là bài Ru con (Ryou anặh) nhẹ nhàng, khoan thai, trìu mến, đong đưa, đong đưa... Còn đây là điệu rơkel đưa tiễn người về nơi "chín suối", Ma Tham ngập ngừng: "Trước khi đi chôn, mình thổi ru đưa tiễn, linh hồn người quá cố sẽ ở lại bên mình". Âm điệu nỉ non, day dứt, đắm trong kỷ niệm về người đã đi vào thiên cổ nhưng không hề bi lụy mà là sự ru vỗ, an ủi người ở lại, dặt dìu tiễn linh hồn người đi. "Có hết, có hết, nó "nói" ở trong này này" - Nghệ nhân Ma Tham ngừng thổi, vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc rơkel: "Vui cũng có, buồn cũng có, thủ thỉ tâm tình có, đối đáp thách thức nhau có...", rồi chị kể say sưa.

Ðang dở câu chuyện thì có người tới. Ma Tham nhanh miệng: "Ha Sen - bố chị đấy! Người chế tác rơkel cho lũ làng Chu Ru mình đấy!". Tôi lặng ngắm cái dáng hình khắc khổ, lầm lũi của người đàn ông đã bước qua sáu mươi lăm mùa rẫy. Chừng như không muốn tôi ngắm nhìn, già Ha Sen liền nói chuyện chế tác rơkel. Trước hết, chọn quả bầu thật già, dày vỏ, kích thước vừa phải và tròn đều, đem vùi vào đất nhão cho ruột rữa ra. Tiếp đến, loại bỏ ruột qua lỗ cắt ở phía cuống, làm sạch bằng nước suối, mang đi phơi nắng. Phơi xong, cho vỏ bầu vào luộc với lá hoặc vỏ cây rừng có chất đắng chát để tránh mối mọt và co giãn sau này. Tiếp theo, gác quả bầu lên giàn bếp khoảng một tháng cho da lên mầu nâu đỏ và săn, rồi lại phơi sương vài đêm nữa. Sau đó, khoét lỗ ở bên hông, kiểm tra âm để lắp sáu ống nứa vào thành hai hàng: trên bốn ống, dưới hai ống.

- Bốn ống trên là nốt Ðộ, Rè, Mi, Fa; hai ống dưới là Sol. Thiếu hai nốt La và Si - Già Ha Sen giải thích, rồi nói tiếp - Ống nứa phải thon gióng, mỏng vừa độ. Ống ngắn cho lượng âm cao, ống dài cho lượng âm thấp. Sáu ống dùi sáu lỗ phía bên ngoài hộp âm (quả bầu); ngoài ra, mỗi ống nứa lại gắn thêm một cái lưỡi gà bằng i-nốc dài khoảng  2 cm ở phía trong hộp âm để tạo độ rung. Khâu này rất quan trọng và cũng là khâu khó nhất. Bởi nó quyết định âm sắc. Cuối cùng mới gắn đường âm (sáu ống nứa) vào hộp âm (quả bầu), và dùng sáp của con ong muỗi hàn kín lại. Chiếc rơkel hình thành. Tất nhiên, để âm chuẩn, có hồn, còn phải tháo lắp, chỉnh sửa nhiều lần.

Là định mệnh, hay như một lẽ tự nhiên nhuốm mầu sắc siêu linh trong việc bảo lưu những tinh túy văn hóa dân gian, Ha Sen được Yàng (trời) chọn, trở thành người giữ nghiệp làm rơkel cho lũ làng. Nhờ óc sáng tạo cùng bàn tay khéo léo, tỉ mẩn, cầu kỳ và khả năng thẩm âm tinh tế, Ha Sen đã chế tác nên những chiếc kèn độc đáo, mang đúng điệu thức dân tộc mình. Hơn mười năm nay, rơkel của Ha Sen đã nổi tiếng khắp vùng. Nó theo chân người yêu nhạc có mặt ở mọi nhà. Từ người Raglai ở tỉnh Ninh Thuận đến người Châu Mạ, Chu Ru, K’Ho, Cill, Lạch, Srê... ở hầu khắp các huyện thuộc tỉnh Lâm Ðồng. Không những vậy, rơkel của ông còn vượt sông K’rông Nô để đến với đồng bào Ê Ðê, Ba Na ở Ðác Lắc, Ðác Nông. Người mua rơkel là tìm bạn tri âm tri kỷ. Thả hồn mấy điệu, âm sắc chuẩn là mua liền. Chủ khách đều vui cái bụng, rồi rượu gà được bày ra, chếnh choáng, chất ngất trong men rừng, trong điệu rơkel ngân vang, da diết, cảm thương, bồng bềnh, hoan hỷ...

Cách thức sử dụng kèn bầu sáu ống là thổi (hít) hơi vào cuống bầu. Các ngón cái, trỏ, giữa và áp bàn tay trái giữ lỗ thoát hơi của bốn ống nứa hàng trên. Ngón cái và ngón trỏ bàn tay phải giữ lỗ thoát hơi của hai ống nứa hàng dưới. Rơkel có thể dùng độc tấu, hoặc hợp tấu với các loại nhạc cụ khác như chiêng (chinh sàrr), trống (sơgơk) và các điệu dân vũ Tamya Ariya, T’rum-pô, Dam dra... huyền ảo. Trong giàn nhạc hợp tấu, rơkel đóng vai trò giữ nhịp, tâm sự dọc chiều lễ nghi. Rơkel tấu trước, cồng chiêng theo sau tạo nên bản hòa âm uyên bác, đa nghĩa. Tín niệm người Chu Ru cho rằng, sự thông nối giữa kèn bầu và cồng chiêng là sự thông nối giữa âm và dương, giữa vợ và chồng, giữa đực và cái. "Không biết cái nào vợ cái nào chồng, nhưng âm dương (vợ - chồng, đực - cái) thì phải "ăn" nhau" - Ma Tham nói. Nhưng kèn bầu khác cồng chiêng ở chỗ: Nếu cồng chiêng chịu sự ràng buộc nghiêm ngặt của tín ngưỡng đa thần, chỉ được sử dụng vào các dịp lễ hội đặc biệt; và trước khi sử dụng, bao giờ chủ làng (pô plei) cũng phải tiến hành nghi lễ để xin phép thần linh; thì ngược lại, rơkel đã được thế tục hóa, mặc dù vẫn nằm trong quan niệm vạn vật hữu linh. Do vậy, đồng bào Chu Ru sử dụng rơkel ở mọi lúc mọi nơi, với mọi trạng thái tình cảm. Bài vui thì có cúng thần đập nước, mừng lúa mới, mừng nhà mới, cưới hỏi,... tiết tấu nhanh, rộn ràng, linh thiêng. Với bài Lấy lửa (Mặ ơpui - lấy lửa bằng cách cà vỏ cây nứa vào nhau) thì rơkel thủ thỉ tâm tình: "Con đói rồi vợ ơi, chàng đang làm mỏi tay mới ra lửa, về thổi cơm cho con ăn...". Bài Tập trung (Tơri gùm) kêu gọi đoàn kết, rơkel lại nói: "Cùng nhau về bên ché rượu cần, ai cũng ở nhà xa là chia rẽ, hãy tập trung một chỗ, cùng sống với nhau nhằm tránh hoang mang, sợ hãi trước hiểm họa thiên nhiên, thú dữ", rơkel ngân, cuốn, du dương, gọi mời. Bài Giao duyên lại tha thiết, quấn quyện, ngọt ngào: "Tôi yêu đằng ấy, đằng ấy có yêu tôi không? Tôi thương đằng ấy, đằng ấy thương tôi chứ?". Nam thanh nữ tú Chu Ru thích những điệu rơkel nhanh, mạnh, kiêu hãnh, vui tươi. Còn những người già yêu các điệu trầm, man mác, nhuốm màu hoài niệm.

Mỗi thông điệp gắn liền với một điệu thức, một bài bản riêng, không hề lẫn lộn. Người thổi rơkel hay là người biết phân biệt ở chỗ rơkel có đủ điệu thức hay không, âm sắc có chuẩn, đầy đủ hồn vía không. Ma Tham học thổi rơkel từ năm mười ba, mười bốn tuổi và bây giờ chị đã ba mươi chín tuổi. Chị bồi hồi nhớ: "Có người già vào làng thổi, mình hỏi điệu này điệu kia, nghe và để trong cái đầu rồi bắt chước, hai năm sau thì thành thạo. Các bài đều có sẵn, nhưng không ai biết ký âm để truyền dạy bằng văn bản, ai có năng khiếu cảm thụ thì nhớ".

Lướt nhẹ đôi tay trên chiếc rơkel, nghệ nhân Ma Tham đưa tôi vào một thế giới thần tiên siêu thực, nhưng cũng hết sức bình dị và rất đời, qua những  giai điệu bổng trầm: khi trầm thiêng như tiếng sấm rền dội vang từ vách núi; lúc thâm u như tiếng gió giữa đại ngàn; khi róc rách, nhấn nhá như con nước xuôi dòng; lắm lúc lại buông lơi, lả lướt như giọt nắng cuối chiều... Và tôi hiểu, đấy chính là tiếng lòng của người Chu Ru, tự ngân rung, tự thẩm thấu từ thế hệ này đến thế hệ khác: Tiếng vọng của ngàn xanh.

Bỗng có tiếng gà gáy khan bên đồi. Tôi biết phần việc của mình đã xong. Rời sơn thôn về lại phường phố. Bà con Chu Ru tiễn tôi bằng những bàn tay giao đãi ân tình, những giọng cười vang vang, những đôi mắt bập bùng sắc lửa. Ðiệu rơkel dư ba. Lại nghe vẳng xa lời Ma Tham: "Có hết, có hết, nó "nói" ở trong này này". Tạm biệt Ma Tham, tạm biệt già Ha Sen, tạm biệt những gương mặt dặc dài nắng gió, tạm biệt điệu thức rơkel, trong tôi lại ngân vang những thanh âm ngày mới. Vâng, thanh âm của niềm tin đại ngàn.

Theo nhandan

  • Từ khóa