NGHỊ QUYẾT CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Về công tác dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020
Nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết về công tác dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020.
I – Tình hình thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản
Những năm qua, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham gia của các ban, ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, công tác dân số và sức khỏe sinh sản của tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức, thái độ và hành vi về dân số, sức khỏe sinh sản có chuyển biến tích cực; quy mô gia đình ít con được chấp nhận ngày càng rộng rão trong các tầng lớp nhân dân, nhất là các cặp vợ chồng trẻ.
Mục tiêu duy trì mức sinh thay thế được giữ vững; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 0,92% năm 2001 xuống còn 0,85% năm 2010. Quy mô dân số từng bước ổn định; thời điểm 01/4/2009, toàn tỉnh có 1.781.842 người. Chất lượng dân số dần được nâng lên; tuổi thọ trung bình của người dân đạt 75 tuổi; chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 14 tỉnh dẫn đầu cả nước.
Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được chú trọng; 100% phụ nữ có thai được khám theo định kỳ; tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng, năm 2010 đạt 78,9%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 29,8% năm 2001 xuống còn 18% năm 2010; trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ được phát hiện sớm, xử lý kịp thời và chăm sóc ngày càng tốt hơn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn kinh phí phục vụ công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản được tăng cường. Đội ngũ cán bộ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các cấp được đào tạo, bồi dưỡng, có kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ.
Tuy nhiên, công tác dân số, sức khỏe sinh sản còn một số hạn chế, yếu kém. Kết quả giảm sinh chưa ổn định và thiếu vững chắc; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn cao (11,35% năm 2010), nhất là vùng xa, khó khăn, ven biển và vùng đồng bào có đạo. Chất lượng dân số chưa đáp ứng yêu cầu; các tố chất về thể lực còn hạn chế, đặc biệt chiều cao, cân nặng, sức bền của vị thành niên và thanh niên. Tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh phụ khoa và tái nhiễm sau điều trị còn cao. Tình trạng nạo phá thai phổ biến (0,6/1 ca sinh), có xu hướng tăng ở vị thành niên và thanh niên. Giới, bình đẳng giới và vị thành niên trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được quan tâm đúng mức; trách nhiệm của nam giới trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình chưa cao; bạo lực gia đình còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Về khách quan
Tư tưởng trọng nam hơn nữ vẫn còn nặng nề ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số có nhiều biến động. Một số chính sách về dân số, kế hoạch hóa gia đình còn thiếu nhất quán, đồng bộ. Một bộ phận nhân dân gặp nhiều khó khăn về đời sống, còn hạn chế hiểu biến về dân số, sức khỏe sinh sản, giới và bình đẳng giới.
Về chủ quan
Một số cấp ủy đảng, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của công tác dân số, sức khỏe sinh sản; trong lãnh đạo, chỉ đạo, còn xem nhẹ, buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng; xử lý chưa nghiêm các hành vi vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Công tác truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản có lúc, có nơi chưa thường xuyên, sâu sát, cụ thể đến từng nhóm đối tượng, nhất là nhóm đối tượng có nguy cơ làm tăng mức sinh trở lại. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dân số, dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ làm công tác dân số, sức khỏe sinh sản còn yếu, chưa yên tâm công tác, nhất là khi có biến động về tổ chức bộ máy.
Những khó khăn, thách thức
Quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao (1.152 người/km2), cơ cấu dân số đang chuyển dần từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số già (tỷ lệ người già chiếm 14%, cao hơn bình quân cả nước); mất cân bằng giới tính khi sinh có xu hướng tăng (tỷ số giới tính khi sinh năm 2000 là 107 nam/100 nữ, năm 2010 là 113/100 nữ); tỷ lệ di dân tự do ra ngoài tỉnh cao (65/1000 dân) đã và đang tạo ra những thách thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm, nhà ở, nâng cao mức sống của người dân, bảo đảm an sinh xã hội và công tác quản lý xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội.
II - Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
A – Quan điểm
1 – Công tác dân số và sức khỏe sinh sản là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, là một trong những nhân tố hàng đầu để nâng cao chất lượng, phát huy thế mạnh nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
2 – Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản; tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em, phát huy lợi thế của “cơ cấu dân số vàng”, chủ động điều chính tốc độ gia tăng dân số và có chính sách phù hợp với những thay đổi về cơ cấu dân số, phân bố dân cư.
3 – Giải pháp cơ bản thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản là vận động, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi gắn với cung cấp dịch vụ theo hướng dự phòng tích cực, bảo đảm công bằng, bình đẳng giới và quyền của người dân trong việc tiếp cận thông tin, lựa chọn dịch vụ có chất lượng, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, đặc điểm văn hóa, tập quán của từng địa phương.
4 – Đầu tư cho công tác dân số và sức khỏe sinh sản là đầu tư cho phát triển bền vững, mang lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế, xã hội và môi trường. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư, trong đó ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu dân số, sức khỏe sinh sản ở địa bàn nông thôn, vùng xa, khó khăn, ven biển và vùng đồng bào có đạo.
5 – Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về công tác dân số và sức khỏe sinh sản; huy động sự tham gia của toàn xã hội; kiện toàn, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác dân số, sức khỏe sinh sản.
B - Mục tiêu
1. Mục tiêu chung
Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản; duy trì mức sinh thay thế, ổn định quy mô dân số; giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh.
2 – Mục tiêu cụ thể
- Quy mô dân số không vượt qua 1,828 triệu người vào năm 2015 và dưới 1,9 triệu người vào năm 2020. tỷ lệ tăng dân số tự nhiệm năm 2015 là 0,78 đến năm 2020 là 0,72%. Duy trì mức sinh thay thế 1,8 con/1 bà mẹ. Tỷ suất sinh năm 2015 là 13,04%0, đến năm 2020 là 12,3%0. Giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên xuống dưới 10%.
- Cải thiện chất lượng giống nòi; giảm dần tỷ lệ trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh; tỷ suất trẻ em dưới 1 tuổi dưới 10%0, dưới 5 tuổi dưới 13%0; tỷ lệ trẻ em sơ sinh sống cân nặng dưới 2.500 gram dưới 3%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 ruổi suy dinh dưỡng dưới 15%.
- Giảm tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, khống chế ở mức 111 nam/100 nữ vào năm 2015 và 109 nam/100 nữ vào năm 2020.
- Thực hiện thông tin giáo dục tư vấn, hiểu biến về sức khỏe sinh sản cho vị thành niên và thanh niên đạt 98% vào năm 2020; giảm nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
- Tỷ lệ người áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đạt 80%, giảm tỷ lệ nạo phá thai xuống còn 0,3/ca đẻ sống văò năm 2020. Cải thiện sức khỏe sinh sản cho các nhóm dân số đặc thù (người di cư, người khuyết tật, người có HIV, người bị bạo hành giới, nạn nhân thiên tai, thảm họa...). Tăng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của các nhóm dân số đặc thù lên 20% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
- Tăng thể lực và tuổi thọ trung bình của người dân lên 77 tuổi vào năm 2020. Đến năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt 1.800 – 1.900 USD; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% trở lên, trong đó đào tạo nghề 41,5%; bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 32 ngàn lao động.
C – Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, huy động sự tham gia của toàn xã hội thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản
Các cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên đưa công tác dân số, sức khỏe sinh sản thành một nội dung quan trọng trong chương trình hoạt động và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; hằng năm, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ công tác dân số, sức khỏe sinh sản, coi đó là một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. Nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản; đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động gia đình, các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân; đồng thời huy động các tổ chức kinh tế, xã hội tham gia thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để mỗi gia đình, mỗi người dân tự nguyện thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình.
2 – Nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi về dân số và sức khỏe sinh sản
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân số và sức khoẻ sinh sản; thông tin các vấn đề về dân số, sức khoẻ sinh sản và bình đẳng giới làm chuyển biến sâu sắc nhận thức, hành động, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền, các ngành, đoàn thể và tạo sự đồng thuần của toàn xã hội trong việc thực hiện công tác dân số, sức khoẻ sinh sản, xây dựng gia đình có 1 hoặc 2 con.
Tăng cường truyền thông đại chúng và các loại hình truyền thông trực tiếp để hướng dẫn thực hiện hành vi có lợi về dân số, sức khoẻ sinh sản phù hợp với từng nhóm đối tượng. Nâng cao hiệu quả truyền thông trực tiếp qua mạng lưới cán bộ dân số, y tế, cộng tác viên của các cấp, các ngành, đoàn thể và tổ chức xã hội; chú trọng các hoạt động tư vấn nhóm nhỏ, tư vấn trước và sau khi cung cấp dịch vụ về dân số, sức khoẻ sinh sản ở cơ sở. Thiết lập trang thông tin điện tử, đường dây tư vấn miễn phí, sản xuất, phát hành các sản phẩm truyền thông về dân số, sức khoẻ sinh sản. Quan tâm đầu tư trang bị phương tiện truyền thông cho cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng truyền thông dân số, sức khoẻ sinh sản cho cán bộ truyền thông các cấp, cán bộ y tế trực tiếp làm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
Đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức giáo dục kiến thức về dân số, sức khoẻ sinh sản, giới, bình đẳng giới phù hợp với lứa tuổi và thuần phong, mỹ tục, đưa vào chương trình giảng dạy chính thức trong các trường học. Kết hợp giáo dục chính khoá với tổ chức sinh hoạt ngoại khoá, thu hút sự tham gia của vị thành niên và thanh niên; tạo sự gắn kết giữa gia đình, nhà trường, đoàn thể, tổ chức xã hội.
3 - Nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Tăng cường các dịch vụ sàng lọc trước sinh và sau sinh để chẩn đoán, can thiệp sớm bệnh, tật ở thai nhi và trẻ sơ sinh; tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt là các gói dịch vụ thiết yếu, bảo đảm quyền sinh sản và đáp ứng nguyện vọng chính đáng, phù hợp với mọi đối tượng; có biện pháp xử lý nghiêm đối với hành vi sử dụng dịch vụ y tế để lựa chọn giới tính khi mang thai.
Củng cố, từng bước hoàn thiện mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản dựa vào cộng đồng, thông qua đội ngũ cộng tác viên dân số và y tế thôn, tổ dân phố. Thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ theo phân cấp, phân tuyến kỹ thuật.
Chú trọng hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn trước, trong và sau khi thực hiện dịch vụ dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Mở rộng mô hình cung cấp các dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khoẻ tiền hôn nhân. Bổ sung, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, dụng cụ y tế, phương tiện vận chuyển cho các điểm cung cấp dịch vụ dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản, ưu tiên cho tuyến cơ sở để đưa dịch vụ đến người dân.
4 - Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số và sức khoẻ sinh sản.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số, sức khoẻ sinh sản từ tỉnh đến cơ sở đủ mạnh, phù hợp với tính chất đặc thù của công tác dân số, sức khoẻ sinh sản và đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Chuyển Trung tâm Dân số – Kế hoạch hoá gia đình về trực thuộc uỷ ban nhân dân huyện, thành phố quản lý. Nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của ban chỉ đạo công tác dân số ở xã, phường, thị trấn. Quan tâm củng cố, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số, kế hoạch hoá gia đình. Trước mắt, thực hiện việc tuyển dụng viên chức chuyên trách làm nhiệm vụ dân số, kế hoạch gia đình ở cấp xã do Trung tâm Dân số – Kế hoạch hoá gia đình quản lý; có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với đội ngũ cộng tác viên ở thôn, tổ dân phố.
5 - Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tăng cường nguồn lực tài chính và xây dựng cơ chế, chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình
Thực hiện quản lý, điều hành công tác dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản theo chương trình mục tiêu quốc gia. áp dụng cơ chế quản lý theo ngành và đơn vị hành chính. Lồng ghép có hiệu quả các nguồn lực và hoạt động trong các chương trình, dự án trên địa bàn. Chính quyền các cấp chủ động cân đối các nguồn lực tài chính, hàng năm, tăng mức đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình. Quan tâm đầu tư, triển khai đồng bộ các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí đầu tư cho công tác dân số, kế hoạch gia đình đúng mục đích, có hiệu quả và thống nhất theo chế độ hiện hành.
Rà soát, xây dựng,sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình, trọng tâm là nâng cao chất lượng dân số, sức khoẻ sinh sản; ngăn ngừa lựa chọn giới tính thai nhi; chăm sóc người cao tuổi; cải thiện phúc lợi cho người dân; tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số và sức khoẻ sinh sản.
III - Tổ chức thực hiện
1 - Các cấp uỷ đảng chỉ đạo và xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức quán triệt, tuyên truyền và thực hiện Nghị quyết.
2 - Uỷ ban nhân dân tỉnh thể chế hoá Nghị quyết, xây dựng chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách về dân số,sức khoẻ sinh sản và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.
3 - Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội đẩy mạnh tuyên truyền,giáo dục, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện công tác dân số, sức khoẻ sinh sản. Phát động và tổ chức thực hiện các phong trào thi đua, định kỳ sơ kết, tổng kết, làm cho công tác dân số, sức khoẻ sinh sản trở thành hoạt động tự giác của mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
4 - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ phối hợp với Sở Y tế theo dõi việc thực hiện Nghị quyết và thường xuyên báo cáo kết quả với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Tin cùng chuyên mục
- Đoàn kiểm tra số 1463 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thông qua dự thảo báo cáo kết quả kiểm tra đối với Ban Thường vụ Huyện ủy Thái Thụy 26.03.2025 | 18:31 PM
- Lãnh đạo huyện Kiến Xương: Thăm, chúc tết một số doanh nghiệp 03.02.2025 | 22:28 PM
- Đưa Hưng Hà trở thành trung tâm kết nối tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh 28.01.2025 | 22:50 PM
- Triển khai nhiệm vụ công tác báo chí, xuất bản năm 2025 16.01.2025 | 19:16 PM
- Thống nhất nội dung giám sát, phản biện xã hội năm 2025 12.12.2024 | 17:35 PM
- Đánh giá kết quả triển khai một số nhiệm vụ Đề án 06 06.12.2024 | 19:21 PM
- Hưng Hà: Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án tổ hợp nghỉ dưỡng khoáng nóng cao cấp LYNN TIMES Duyên Hải 12.11.2024 | 17:24 PM
- Giám sát việc thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững tại huyện Quỳnh Phụ 08.10.2024 | 20:36 PM
- Triển khai nhiệm vụ trọng tâm công tác tuyên giáo 30.09.2024 | 17:56 PM
- Quỳnh Phụ: Khai giảng lớp sơ cấp lý luận chính trị 07.06.2024 | 15:05 PM
Xem tin theo ngày
-
Đặc sắc chương trình nghệ thuật kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và chào mừng hợp nhất tỉnh Hưng Yên và tỉnh Thái Bình
- Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến thăm làm việc tại phường Phố Hiến
- Công bố nghị quyết, quyết định của Trung ương, địa phương về sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và kết thúc hoạt động cấp huyện
- Báo Thái Bình - Một hành trình với những mốc son lịch sử
- Thư tòa soạn
- Công bố quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an, Giám đốc Công an tỉnh về công tác tổ chức, cán bộ
- Khởi công dự án nhà máy đốt chất thải rắn phát điện công nghệ hiện đại tại xã Thụy Trình
- Khởi công dự án đầu tư xây dựng sân golf Cồn Vành và dự án đầu tư xây dựng khu bến cảng hàng lỏng Ba Lạt
- Việt Nam nâng tầm vị thế tại Hội nghị quốc tế về biển và đại dương
- Hội thảo khoa học: Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Nhà lãnh đạo kiên định, sáng tạo của Đảng và cách mạng Việt Nam