Thứ 3, 05/08/2025, 07:39[GMT+7]

Nhận diện kết quả sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản quý I

Thứ 6, 05/04/2013 | 14:12:27
1,079 lượt xem
Sản xuất nông, lâm nghiệp-thuỷ sản quý I tiếp tục tăng trưởng sau 25 năm trước đó tăng trưởng liên tục. Đây là tín hiệu khả quan để nhóm ngành này tiếp tục tăng trưởng năm thứ 26 liên tục.

Tốc độ tăng/giảm một số chỉ tiêu chủ yếu nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản (%). Nguồn số liệu: TCTK

  Mặc dù đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá với mục tiêu tổng quát là đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng sản xuất nông, lâm nghiệp-thủy sản đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, lĩnh vực này cần được theo dõi kịp thời và toàn diện từ sản xuất, đến tiêu thụ, xuất khẩu.

 

Với ý nghĩa đó và từ những thông tin trong quý I do Tổng cục Thống kê công bố, có thể nhận diện những kết quả chủ yếu và những vấn đề đặt ra đối với nông, lâm nghiệp-thuỷ sản.

 

Trước hết, cần điểm qua tốc độ tăng/giảm một số chỉ tiêu chủ yếu của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản so với cùng kỳ năm trước.

 

Những đóng góp nổi bật

 

Tăng trưởng giá trị tăng thêm của toàn nhóm ngành này đạt được ở cả 3 ngành. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 73,9%) tăng 2,03%, thấp nhất  trong 3 ngành. Thủy sản chiếm tỷ trọng lớn thứ hai (chiếm 21,4%) tăng 2,28%, cao thứ 2 trong 3 ngành. Lâm nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất (chiếm 4,8%) lại tăng cao nhất 5,38%.

 

Nhờ sản xuất tiếp tục tăng trưởng, bình quân quý I năm nay so với cùng kỳ năm trước, giá lương thực đã giảm 4,7%, giá thực phẩm tăng 1,78%, đều thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân chung (6,91%). Nói cách khác, người sản xuất lương thực-thực phẩm đã góp phần vào việc kiềm chế lạm phát trong quý I năm nay. Đây là tín hiệu khả quan để cả năm có thể đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết của Quốc hội.

 

Xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm-thủy sản tiếp tục đạt quy mô khá hoặc tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Thuỷ sản tuy bị giảm (2,3%), nhưng quy mô đã đạt được 1.260 triệu USD. Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1.177 triệu USD, tăng 15,7%. Cà phê tuy bị giảm 1,5%, nhưng kim ngạch đạt 1.092 triệu USD. Gạo đạt gần 1,5 triệu tấn, tăng 9,8% và đạt 644 triệu USD; giá xuất khẩu giảm 10,2%, nhưng nhờ Chính phủ cho mua tạm trữ nên giá lương thực ở trong nước giảm ít hơn. Cao su đạt 522 triệu USD. Sắn và sản phẩm sắn đạt trên 1,5 triệu tấn, tăng 19,5%, với kim ngạch đạt 460 triệu USD, tăng 23,4%. Hạt tiêu đạt 39.000 tấn, tăng 26,9%, kim ngạch đạt 261 triệu USD, tăng 23,6%. Hạt điều đạt 43.000 tấn, tăng 14,5%, kim ngạch đạt 250 triệu USD. Rau quả đạt 187 triệu USD, tăng 9,7%. Chè đạt 44 triệu USD, tăng 4,8%...

 

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm-thuỷ sản đạt gần 6 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

 

Nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản đã góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho số người đến tuổi lao động, xuất ngũ trở về, thu hút trở lại số lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm ở các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các nhóm ngành khác. Đây chính là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm của Việt Nam thấp hơn nhiều nước và không tăng mạnh khi tăng trưởng sản xuất, kinh doanh bị suy giảm, số doanh nghiệp bị ngừng sản xuất, phá sản, thu hẹp sản xuất kinh doanh như nhiều nước.

 

Những vấn đề đặt ra

 

Bên cạnh những kết quả tích cực, nông, lâm nghiệp-thủy sản hiện cũng còn những hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ.

 

Về sản xuất, tốc độ tăng giá trị tăng thêm quý I năm nay thấp nhất so với tốc độ tăng của quý I cùng kỳ trong 3 năm trước đó (tăng 2,24% so với con số 2,81% của quý I/2012, 3,35% của quý I/2011, và 4,08% của quý I/2010). Trong đó chăn nuôi và thủy sản nuôi trồng tăng thấp nhất. Chăn nuôi gặp khó khăn, khi số đầu gia súc, gia cầm bị sụt giảm (đàn trâu, bò giảm 3-4%; đàn lợn giảm 1-2%, trong khi giá bán sản phẩm của người sản xuất thịt lợn giảm 20%; đàn gia cầm giảm 2-3%). Tổng sản lượng thuỷ sản chỉ tăng 1,1%, trong đó sản lượng nuôi trồng giảm 2,3%, chủ yếu do sản xuất cá tra thua lỗ kéo dài, chi phí đầu vào tăng, việc tiếp cận vốn vay khó khăn, nhiều thị trường nhập khẩu lớn giảm, gần đây Mỹ lại quyết định mức thuế chống phá giá rất cao. Nhiều địa phương đã giảm diện tích nuôi.

 

Về tiêu thụ, giá lương thực năm trước giảm sâu, 3 tháng đầu năm nay tiếp tục giảm, tuy có tác động tích cực đến kiềm chế lạm phát, nhưng phía người sản xuất lại chịu thiệt thòi.

 

Xem xét một số lĩnh vực qua tốc độ tăng/giảm giá có thể thấy một số vấn đề đáng quan tâm.

 

(1) Kim ngạch nhập khẩu (phân bón, thức ăn gia súc, gỗ) tăng khá cao (tăng 32,8%), nhưng chủ yếu do giá tăng (tăng 17,2%), còn lượng nhập khẩu chỉ tăng 13,3%. Điều đáng nói là, Việt Namon> là nước nông nghiệp nhưng phải nhập khẩu số lượng lớn những mặt hàng này và một số nông sản khác (ngô, đậu tương, hạt điều, hàng thuỷ sản, dầu mỡ động thực vật, sữa và sản phẩm sữa...).

 

(2) Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm-thuỷ sản tăng 3,9%, nhưng giá xuất khẩu giảm sâu (giảm 5,4%), dẫn đến tình trạng lượng xuất khẩu tăng tới trên 9,8% nhưng những người sản xuất ra nông, lâm-thủy sản xuất khẩu lại bị thiệt lớn.

 

(3) Giá nhập khẩu tăng cao, giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho người sản xuất tăng, trong khi giá bán sản phẩm của người sản xuất nông, lâm nghiệp-thuỷ sản lại giảm sâu (giảm 5,48%).

 

(4) Giá bán của người sản xuất nông, lâm-thủy sản giảm sâu (giảm 5,48%), nhưng giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,55%. Điều này dẫn đến hiện tượng chênh lệch giữa giá bán của người sản xuất nông, lâm-thủy sản với giá mua của người tiêu dùng là khá lớn, phần thua thiệt người sản xuất chịu, phần lớn chênh lệch tăng giá thực tế thuộc về các khâu trung gian (mua đi bán lại, vận tải...). Ngay trong giá tiêu dùng, giá lương thực giảm sâu (giảm 4,7%), giá thực phẩm tăng 1,78%, tính chung giá lương thực-thực phẩm chỉ tăng khoảng 1%, trong khi giá ăn uống ngoài gia đình tăng 7,68%. Tất nhiên, tăng giá ăn uống ngoài gia đình có một phần quan trọng là do giá cho thuê nhà, cho thuê cửa hàng, địa điểm bán hàng hiện ở mức rất cao.

 

(5) Giá bán sản phẩm của người sản xuất nông, lâm nghiệp-thuỷ sản giảm sâu, trong khi giá mua hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng ngoài lương thực-thực phẩm lại tăng trên 10%.

 

Với những vấn đề trên, ngành sản xuất nông, lâm nghiệp-thuỷ sản rất cần được các ngành, các cấp hỗ trợ cả ở đầu vào và đầu ra.

Nguồn chinhphu.vn

 

 

 

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày