Thứ 2, 04/08/2025, 09:36[GMT+7]

Những bất cập từ sách giáo khoa phổ thông

Thứ 6, 29/03/2013 | 08:16:06
4,303 lượt xem
Vừa qua, Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Thái Bình tổ chức giám sát tại các cơ sở giáo dục gồm tiểu học, THCS và THPT về: Thực hiện chính sách pháp luật, bảo đảm chất lượng và chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bài viết này nêu ý kiến của các thầy, cô giáo, nhà quản lý giáo dục về những bất cập từ sách giáo khoa phổ thông.

Ảnh minh họa

Theo báo cáo mới đây của Sở Giáo dục và Đào tạo với Đoàn giám sát cho thấy: Về mục tiêu cơ bản đạt được yêu cầu, tuy nhiên nhìn tổng thể thì chương trình còn nặng nề dạy chữ, nhẹ dạy người. Đơn cử môn giáo dục công dân và môn lịch sử là hai môn xã hội nhân văn trực tiếp giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức tự lực tự cường của dân tộc; giáo dục đạo đức pháp luật, có tác dụng hình thành nhân cách của người Việt Nam thì thời lượng để học môn này ở trường THPT là quá ít: 1 tiết và 1,5 tiết/tuần.

Ý kiến từ Trường THPT Vũ Tiên thì: Một vài bộ phận trong chương trình vẫn nặng, gây quá tải, mặc dù đã có giảm tải, học sinh phải học quá nhiều môn. Mặt khác có sự không phù hợp với thực tế giữa yêu cầu của chương trình với phòng học và điều kiện cơ sở vật chất hiện có như: không phù hợp giữa số tiết học tại phòng học bộ môn với thực tế số lượng phòng học bộ môn trong nhà trường và thiết bị bộ môn, hóa chất thí nghiệm quá ít. Chính vì lý do quá tải về nội dung kiến thức, nên nhiều bài giáo viên vẫn còn dạy theo kiểu thuyết trình là chính, hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học vì thế rất hạn chế.

Theo cô giáo Phạm Thị Kim Liên, Hiệu trưởng trường THCS Kỳ Bá thì chương trình chưa thực sự chú ý giáo dục phổ thông, nặng dạy chữ, chưa chú trọng dạy nghề. Môn ngữ văn lớp 7 đưa một số tác phẩm văn học trung đại và thơ Đường (thể thơ khó cả với giáo viên và đề tài không phù hợp lắm) nên không gây hứng thú học của học sinh; quá nặng so với nhận thức của học sinh lớp 7. Môn ngữ văn lớp 9, số lượng văn bản quá nhiều mà thời gian dạy mỗi văn bản lại ít (tiết 26, 30 có 3 văn bản truyện Kiều; tuần 11 có 2 văn bản dài “Đoàn thuyền đánh cá” và “Mùa xuân nho nhỏ”. Môn tiếng Anh 8, chương trình quá nặng so với 4 khối lớp trong cấp học như: Mảng câu chủ động, bị động cũng nằm cả trong 1 bài, mà thời gian phân phối ít. Ở môn này, mảng câu trực tiếp, gián tiếp là mảng dài, khó mà sách giáo khoa chỉ đưa ra phần mẫu câu khuyên nhủ (Should) và câu trần thuật đơn giản. Unit 15 đề bài về Computer (máy tính) nhưng bài nghe và đọc (Listen and Read) lại là nói về máy in.

Sách giáo khoa của bậc THCS thì như vậy, còn bậc tiểu học thì sao? Theo cô Nguyễn Thị Dung, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Đông Xuân thì sách giáo khoa còn một số bài nặng lý thuyết, học sinh ít có thời gian thực hành, bài yêu cầu còn nặng, dài và ghi nhớ máy học... chưa phù hợp với phần đông học sinh. Tiếng Anh lớp 3, 4, 5 thí điểm, từ mới quá nhiều, mẫu câu dài làm học sinh tiểu học khó nhớ. Dạng bài nghe thiết kế trong sách còn đơn điệu trong khi yêu cầu nghe khi làm bài kiểm tra cao (5/10 điểm).

Cũng như thế, ý kiến từ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng (Thành phố Thái Bình) sách giáo khoa tiểu học có rất nhiều vấn đề: Sách tiếng Việt lớp 1 có chủ đề luyện nói còn xa lạ với học sinh vừa qua tuổi mẫu giáo; một số minh họa chưa phù hợp với nội dung như: le le, gà ri, gà gô... Cần sắp xếp lại vần; vần dễ phát âm trước, khó sau như: ưu, ươu... Một số bài tập đọc dài, câu hỏi khó mà thời lượng trong một tiết học là 35 phút, không bảo đảm yêu cầu của tiết học như: Đất quý, đất yêu; Người liên lạc nhỏ; Hai Bà Trưng... Lớp 3 trong môn tập làm văn có một số bài chưa hợp lý, rất khó với học sinh như bài điện báo, kể một trận thi đấu thể thao. Loạt bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, học sinh gặp nhiều khó khăn, vì không có điều kiện tiếp cận hoặc không được chứng kiến. Môn luyện từ và câu, chính tả, tập viết... có tình trạng chương trình ít quan tâm đến luật chính tả. Tập viết lớp 1 có một số từ viết dài, học sinh không đủ viết từ trong 1 dòng: ngoan ngoãn. Lớp 2, 3 có phần kết hợp cả nét chữ đứng, nét đều, nghiêng... khiến các em khó điều chỉnh nét chữ. Một số bài quá dài không đủ viết trong một tiết. Cá biệt có nội dung bài viết trong sách giáo khoa và vở tập viết chưa đồng nhất. Đối với môn toán, phần bài tập cho học sinh lớp 1 chưa khoa học, thiếu thẩm mỹ, khó với học sinh. Toán lớp 3, chương trình nhân chia ngoài bảng học sinh hay làm sai vì học sinh phải thực hành nhân chia với các số quá lớn. Đối với lớp 4, kiến thức quá nặng và nhiều. Cần đưa phần nhân, chia 2 chữ số xuống học kỳ II lớp 3. Môn Khoa – Sử - Địa thì phần địa lý thế giới chưa phù hợp với học sinh tiểu học. Cần có tranh, ảnh phù hợp với từng bài để phục vụ cho dạy và học thuận lợi hơn. Trong môn địa lý nên có thêm chú thích ở cuối trang đối với những từ mới, khó hiểu. Môn tiếng Anh lớp 1, 2 một số từ dài, khó (như ý kiến trên) vì vậy, phần từ vựng cuối sách cần chú thích thêm từ loại và phiên âm. Một số chủ điểm chưa gần gũi với học sinh. Tiếng Anh các lớp 3, 4, 5 thí điểm vừa dài, khó nhớ, kiến thức nặng so với khả năng của học sinh.

Ý kiến từ Sở Giáo dục và Đào tạo cũng khẳng định: So với chuẩn kiến thức và kỹ năng đối tượng là học sinh THCS, THPT và quy định về số môn học, thời gian học tập ở Việt Nam, ngày nay rất nặng nên nhà trường và giáo viên không còn thời gian để rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã điều chỉnh nội dung theo hướng giảm tải, Sở đã xây dựng lại phân phối chương trình theo tinh thần điều chỉnh nội dung dạy học, phù hợp với chuẩn kiến thức, chuẩn kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông; phù hợp với thời lượng dạy học và điều kiện thực tế của nhà trường góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Chính vì sự bất cập này, nên tình trạng dạy thêm, học thêm như một nhu cầu tất yếu và như một số cán bộ quản lý giáo dục khẳng định: Cấm cũng không được. Điều quan trọng là phải quản lý thật tốt mà thôi.

Phạm Viết Thanh

  • Từ khóa