Thứ 2, 06/05/2024, 16:33[GMT+7]

Bác Hồ với việc bảo tồn các giá trị văn hóa làng

Chủ nhật, 01/09/2013 | 20:49:32
1,680 lượt xem
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn. Về phương diện bảo lưu và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, trong đó có việc bảo tồn di sản văn hóa và kế thừa hương ước cổ để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam luôn được Người chăm lo.

Biểu diễn văn nghệ của Câu lạc bộ nghệ thuật người cao tuổi thôn Trác Dương, xã Thái Phương (Hưng Hà) trong ngày hội đại đoàn kết. Ảnh: Ngọc Linh

Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cả dân tộc tưng bừng bước vào xây dựng đời sống mới trong chế độ mới. Với khí thế tiến công cách mạng xóa bỏ các tàn dư của chế độ phong kiến, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xóa bỏ mê tín dị đoan… không ít di sản vật thể và phi vật thể trong hệ giá trị văn hóa làng bị “quy oan” và bị xóa bỏ. Có lẽ, vì biết rõ những hậu quả khôn lường từ những nhận thức và hành động ấu trĩ này nên chỉ sau hơn hai tháng lập nước, dù đang phải ứng phó với biết bao công việc để chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65 ngày 23/11/1945 về việc Bảo tồn cổ tích. Điều 4 của Sắc lệnh này nêu rõ: “Cấm phá hủy đình, chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử mà được bảo tồn”.

 

Thế nhưng, khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều địa phương đã phải triển khai thực hiện tiêu thổ để kháng chiến. Nhiều thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo của làng bị tháo dỡ để quân giặc không có chỗ đóng quân, nhiều bia đá bị đập vỡ đem làm vật cản đường tiến quân của giặc, nhiều chuông đồng cùng các đồ thờ đem rèn, đúc làm vũ khí. Vì chiến tranh cho nên hội làng truyền thống không có điều kiện duy trì…

 

Từ sau năm 1954 trở lại đây, trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Bắc, do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan khác nhau, nhiều thành tố văn hóa cấu thành văn hóa làng đã bị nhạt phai, thậm chí có một thời gian dài bị đố kỵ, bị đánh đồng với những tàn dư của chế độ phong kiến để lại. Những năm tháng tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất và quá trình hợp tác hóa nông nghiệp nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của hầu hết các làng ở miền Bắc bị “ngược đãi”. Nhiều đình, chùa, đền, miếu bị hạ giải để lấy vật liệu xây dựng các công trình phúc lợi của xã hoặc bị sử dụng làm trụ sở ủy ban xã, làm trường học, trạm xá, nhà kho… Nhiều bia đá bị đập để nung vôi, chuông đồng bị bán để đúc đồ gia dụng, thần tích, địa bạ, gia phả cùng các loại sách vở chữ Hán Nôm bị đem làm quạt, làm diều… Lễ hội của làng không được duy trì; nhiều trò chơi, trò diễn dân gian “một đi không trở lại” cùng lớp người cao tuổi vốn từng tắm mình với nó…

 

Có thể nói rằng trong khoảng hơn 30 năm (khoảng từ sau năm 1945 đến trước, sau năm 1975) các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng cùng nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong các làng quê ở miền Bắc bị hư hao nhiều nhất trong lịch sử. Số phận của văn hóa làng ở thời kỳ này bị tổn thương nặng nề nhất. Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, hiện tượng dùng đình, đền làm trụ sở Ủy ban nhân dân xã, thậm chí là bán đình làng để lấy tiền xây dựng các công trình phúc lợi cho xã ở nơi này, nơi kia không phải là không còn.

 

Cho đến đầu những năm 1980, xu hướng chấn hưng văn hóa làng mà dễ nhận thấy là hiện tượng lễ hội truyền thống ở nhiều làng được phục hồi từng được xem là hiện tượng “bùng nổ” của hội làng thì dư luận của xã hội, của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý chưa hẳn đã thống nhất. Từ khi Đảng ta chủ trương phát động đổi mới đất nước, đặc biệt là từ những năm đầu 1990 trở đi, xu hướng chấn hưng văn hóa làng ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ ngày càng thêm sôi động. Lớp người cao tuổi ở các làng, trong đó có cả những người trước đây ở thời trai trẻ đã hăm hở phá đình, đốt sách Hán Nôm thì nay lại lặn lội cùng con cháu đi tìm lại thần tích, sắc phong thành hoàng làng, chẳng quản công sức tập hợp các nguồn lực trùng tu tôn tạo lại các thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo của làng. Cũng thật đáng trân trọng, nhiều cán bộ, đảng viên đã hoặc đang công tác ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã cũng chú tâm đóng góp vào việc trùng tu tôn tạo di tích của quê mình. Cùng với quá trình này thì ý thức cộng đồng, cộng cảm, tính tự chủ, tự quản trong từng cộng đồng làng cũng được chấn hưng.

 

Nắm bắt xu thế này, một số tỉnh như Hà Bắc (khi đó chưa chia tách tỉnh), Thái Bình, Hải Phòng… nhen nhóm  thí điểm khai thác tiềm năng, tiềm lực tự chủ, tự quản của các cộng đồng làng để triển khai các thao tác xây dựng làng văn hóa nhằm đổi mới nội dung, phương thức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Vấn đề đặt ra là muốn xây dựng làng văn hóa thì phải có quy ước, hương ước của làng, mà làng cũ lại gồm nhiều thôn, xóm hiện hành. Vào thời điểm đó có không ít ý kiến trái chiều nhau đã được trao đổi trên các diễn đàn. Có ý kiến cho rằng, khơi dậy tính cố kết của các cộng đồng làng sẽ khơi dậy tính cục bộ của các làng trong các địa phương. Mặt khác, đơn vị dân cư đã được tổ chức theo mô hình xóm (hoặc thôn). Có xóm (thôn) hiện hành gồm phần đất đai, tài sản, dân cư của hai làng cũ hợp thành, nếu lấy làng làm đơn vị để xây dựng làng văn hóa có thể dẫn đến sự xáo trộn trong đời sống. Có ý kiến đã cho rằng khuyến khích các làng biên soạn hương ước sẽ dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”.

 

Năm 1995, chúng tôi đã được ông Giang Đức Tuệ ở tuổi 85, nguyên là Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Thái Bình những năm 1957 - 1959 kể cho nghe một câu chuyện khá lý thú khi ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1958. Khi đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình cử ông cùng một số cán bộ lên mời Bác Hồ về thăm tỉnh.

 

Sau khi làm việc xong, Bác mời ông Tuệ cùng đoàn ăn cơm với Bác tại Phủ Chủ tịch. Trong bữa cơm Bác ân cần hỏi chuyện mọi người và đột ngột Bác hỏi: “Ở Thái Bình các chú còn duy trì hương ước không?”. Mọi người lúng túng nhìn nhau. Ông Tuệ dè dặt trả lời: “Thưa Bác không ạ!”. Nét mặt Bác không vui và giải thích: “Hương ước là những khoản ước trong làng, người ta quy định với nhau không để trâu bò phá hoại lúa, mạ, không để gà qué ăn rau, màu, không được trộm cắp của nhau… Đó là những phong tục đẹp trong nông thôn nước ta trước đây. Từ sau ngày cách mạng các chú xóa bỏ hết cả, thế là không đúng. Cách mạng chỉ xóa đi cái xấu, cái dở, còn cái tốt cái hay cần gìn giữ và phát huy chứ!”. Đó là chuyện Bác Hồ nói vào năm 1958. Thế nhưng, hơn 30 năm sau, vẫn có người băn khoăn về việc khôi phục và duy trì hương ước sẽ dễ dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”.

 

Nhận thức là một quá trình. Trong khi khắp nơi trong cả nước đang trương khẩu hiệu “Sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật” thì nếu có ai đó chưa hiểu hết giá trị của hương ước mà băn khoăn với việc duy trì hương ước trong đời sống hiện tại có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính thống nhất của luật pháp quốc gia thì cũng là chuyện thường tình. Điều băn khoăn này không chỉ ở một số nhà nghiên cứu mà còn nặng nề hơn, day dứt hơn với nhiều nhà quản lý các cấp vì họ chưa từng được tiếp xúc với những khái niệm về hương ước mà chỉ quen với thành ngữ “phép vua thua lệ làng”.

 

Khi chưa nhận biết một cách thấu đáo về hương ước và sự tồn tại hiện hữu của văn hóa làng trong đời sống cộng đồng, cả mặt tích cực và mặt hạn chế, nhất là khi làng không  còn là thực thể với tư cách là một đơn vị dân cư với tên gọi và địa dư, duyên cách cụ thể (vì đơn vị cư dân dưới xã  được tổ chức theo thôn, xóm) thì việc lấy làng làm đơn vị văn hóa gặp không ít khó khăn, lúng túng. Tỉnh Thái Bình vốn là một trong những địa phương sớm triển khai xây dựng làng văn hóa vào những năm 1990 - 1991 và bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, được Bộ Văn hóa Thông tin đánh giá là một trong số ít tỉnh, thành đi tiên phong.

 

Nhưng sau khi sáp nhập Sở Văn hóa Thông tin với Sở Thể thao vào năm 1992 thì phong trào bị chững lại mất vài năm vì lúng túng trong sự chỉ đạo lấy xã để xây dựng đơn vị văn hóa. Vào thời điểm đó, có cán bộ trong ngành say mê với những thao tác xây dựng làng văn hóa đã bị phê phán kịch liệt là đã làm sai với chủ trương của tỉnh, của ngành… Thế rồi, những thao tác xây dựng xóm, xã văn hóa mang tính hình thức, duy ý chí đã không mang lại hiệu quả gì vì không cuốn hút được lòng dân, một vài năm sau đó lại phải trở về với mô hình xây dựng làng văn hóa.

 

Cần phải thấy rằng, nền văn hóa của dân tộc  Việt Namon> trải qua hàng nghìn năm được xây dựng và phát triển theo quy luật: Gia đình điều chỉnh đời sống văn hóa bằng quan hệ ruột thịt, tình cảm. Thôn làng điều chỉnh đời sống văn hóa bằng quan hệ dư luận, thông qua hương ước. Nhà nước từ Trung ương đến xã điều chỉnh đời sống văn hóa bằng quan hệ luật pháp”.

 

Có nhà nghiên cứu văn hóa từng đã lý giải: “Trước đây về mặt hành chính người ta cũng chia ra: hương, thôn, xá, xã… nhưng đó là đối với cơ quan Nhà nước. Nhân dân hàng bao thế kỷ nay thì chỉ biết có làng. Từ khi có làng, mọi thế hệ đều gắn bó với làng và dù dưới triều đại nào, dù bọn xâm lược đến nước này là người Á hay người Âu, dù theo văn minh Đông hay văn minh Tây, làng vẫn cứ kiên cường tồn tại. “Phép vua thua lệ làng”, thành ngữ ấy thường bị hiểu lầm, bị vận dụng một cách sai trái, thực ra nó có một ý nghĩa khác: Làng có một sức mạnh, sức bền, không dễ dùng quyền uy mà lấn lướt được. Cần phải biết lệ làng mới có thể chinh phục được làng. Bọn xâm lăng không biết lệ làng, nên những gì chúng áp đặt vào làng đều bị bật ra. Các giáo lý của triều đình nhập vào làng thì phải có cách gì đó, hòa với làng mới có thể có vị trí tôn vinh được”.

 

Thực tế của quá trình triển khai vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đến cơ sở ở nông thôn từng đã cho thấy có nơi, có lúc ở một số địa phương đã phải trả giá, không phải vì “phép vua thua lệ làng” mà chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thì đúng đắn nhưng triển khai vận dụng lại không thấu đáo, không hợp lòng dân. Có thời điểm, trên phạm vi cả một tỉnh đã phải trả giá đắt vì sự áp đặt, thiếu dân chủ các quy định của chính quyền cơ sở và chưa biết cách để các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước cùng các quy định của địa phương “hòa vào làng”.

 

Về một phương diện nào đó, có thể coi tình hình mất ổn định trên diện rộng ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Bình vào những năm cuối thế kỷ XX là một minh chứng. Vào thời điểm ấy, những làng đã triển khai có bài bản các thao tác huy động được sức dân để xây dựng làng văn hóa theo những nội dung hợp lòng dân thì tình hình vẫn cơ bản ổn định, nếu có khiếu kiện cũng không diễn ra gay gắt và thường tuân thủ đúng quy định. Điều đáng quan tâm là dường như không có địa phương nào phải xử lý tình huống “phép vua thua lệ làng” do những hương ước của các làng vừa được thông qua và duy trì một vài năm trước đó. Những địa phương không lấy đơn vị làng mà lấy xã làm mô hình thí điểm xây dựng xã văn hóa thì tình hình khiếu kiện đông người vẫn diễn ra gay gắt kể cả những xã được chọn làm mô hình điểm.Mới hay: càng nhìn lại thực tế bảo tồn các giá trị văn hóa làng và thực tế triển khai xây dựng làng văn hóa càng thấm thía thêm hơn về tầm cao trí tuệ, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thanh

(Vũ Quý, Kiến Xương)

 

  • Từ khóa