Thứ 2, 03/03/2025, 20:32[GMT+7]

Tìm lại dấu ấn các gánh chèo xưa

Thứ 2, 03/03/2025 | 09:19:46
719 lượt xem
Thái Bình từng vẫn được tôn xưng là đất chèo. Theo kết quả điền dã của các nhà nghiên cứu, vào nửa đầu thế kỷ XX, hầu khắp các phủ, huyện ở Thái Bình đều có các gánh chèo với quy mô lớn, nhỏ khác nhau.

Bảo tồn nghệ thuật tại nhà thờ tổ chèo làng Khuốc (Đông Hưng). Ảnh: TÚ ANH

Có thể hiểu “gánh chèo” là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm người làm nghề chèo do một người đứng ra tổ chức và duy trì hoạt động thường gọi là ông trùm chèo. Trong dân gian từng đã được gọi là phường, gánh, ban, hội, tổ, đội... theo cách gọi của mỗi địa phương, trong đó phường hoặc gánh là cách gọi khá phổ biến. Khá nhiều ý kiến đã lý giải việc gọi tên gánh chèo là bởi khi đi diễn, mọi người thường phải gánh đồ nghề đi theo. Gọi là phường chèo là cách gọi chung cho một nhóm người làm nghề chèo cũng như phường thợ, phường chài, phường buôn, phường kèn... Gọi là hội chèo là do phải kê khai theo mẫu biểu của nhà chức trách đương thời yêu cầu. Với những gánh chèo lớn đi hành nghề xa hoặc gần thường có những khoán lệ (quy ước) riêng. “Thương hiệu” của mỗi gánh thường được tạo ra từ những tích trò gắn với tên tuổi của ông trùm hoặc của người sắm vai có tài đã tạo được dấu ấn riêng về lối hát, lối diễn. Gánh chèo được gọi là mạnh phải có được cặp đào kép và một hề hát hay diễn giỏi. Theo thuật ngữ dân gian thì “hát” bao gồm cả “diễn”. Nói là đi xem hát có nghĩa là xem diễn, nói là đi hát đám tức là đi diễn ở nơi có đám. 

Kết quả sưu tầm, điền dã vốn chèo cổ ở Thái Bình của các nhà nghiên cứu cho thấy, trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở Thái Bình có tới 46 gánh chèo từng hành nghề trong và ngoài tỉnh, mưu sinh bằng nghề chèo. Các đơn vị này được phân bố trên địa bàn tỉnh như sau: Vũ Thư 13; Đông Hưng 9; Hưng Hà 8; Kiến Xương 6; Thái Thụy 4; thành phố Thái Bình 4; Quỳnh Phụ 2. Theo xu hướng chung thì mỗi ông trùm đứng ra lập gánh chèo ban đầu chỉ tập hợp được dăm bảy đào kép tập những trò nhỏ để diễn tại làng sau có điều kiện quy tụ được lực lượng, tập thêm tích trò mới, khi gánh hát đã có tiếng tăm rồi thì các hội làng trong tổng, trong huyện mời đến diễn và đi ra ngoài phủ, huyện, ngoài tỉnh để hành nghề. Các gánh chèo lớn thường có “đất diễn” riêng ở một số hội làng trong và ngoài tỉnh. Ví như các gánh chèo thuộc vùng chèo Sáo Đền thường hành nghề ở các hội Sáo Đền, hội chùa Keo, hội Lơ, hội Lạng, hội chùa Múa... là những hội lớn, nay thuộc địa phận huyện Vũ Thư. Các gánh chèo thuộc vùng chèo Hà thường hành nghề ở hội làng Dương Xá, hội làng Hới... nay thuộc địa phận huyện Hưng Hà. Các gánh chèo ở Kiến Xương thường bám trụ ở hội đền Đồng Xâm, hội làng Vũ Lăng, hội làng Lại Trì, hội làng Thượng Phúc, hội đền Mộ Đạo... Các gánh chèo thuộc vùng chèo Khuốc cũng từ đất diễn của hội làng mình và các hội làng trong tổng, trong huyện rồi dần dà vươn ra các hội lớn có thể hát vài ba đêm liền ở ngoài phủ, huyện như hội làng Miên, hội làng Lộng Khê, hội làng Phụng Công, hội đền Đồng Bằng, nay thuộc địa phận huyện Quỳnh Phụ... Một số gánh hát có danh tiếng ở Thái Bình từng đã đi diễn dài ngày ở tỉnh ngoài. Các gánh ở vùng Hà Xá (Hưng Hà) thường sang diễn ở Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Các gánh ở vùng Sáo Đền (Vũ Thư) thường sang diễn ở Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, có khi đi tận Hà Đông, Sơn Tây, Móng Cái... Các gánh chèo làng Khuốc từng đã ghi dấu ấn ở nhiều nơi như Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Hải Phòng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hòa Bình, có gánh đã từng diễn nhiều đêm tại rạp Sán Nhiên Đài ở Hà Nội... 

Về quy mô tổ chức và cung cách hành nghề của mỗi gánh một khác. Có gánh khi mới lập ra thì ông trùm lo toàn bộ chi phí mời thầy dạy, nuôi mọi người ăn tập, y trang, đạo cụ của vai nào người ấy phải tự lo sắm. Khi đi đám có thu được đồng nào thì trừ chi phí lặt vặt dọc đường, còn lại ông trùm chia hết cho mọi người. Cũng có khá nhiều gánh hoạt động mang tính gia đình, tài tử, ăn cơm nhà đến tập, ông trùm lo nước uống, thuốc hút, thi thoảng có nồi cháo, nồi chè bồi dưỡng, tiền thết đãi thầy dạy do ông trùm lo, khi đi đám có tiền thì trừ hoặc không trừ cũng không sao. 

Về hóa trang, các nghệ nhân thường dùng phấn tượng là đất sét trắng giã nhỏ, rây lấy bột hoặc quấy thành nước, lọc kỹ phơi khô thành bột mịn, bôi môi, xoa má bằng nước lá một vài loại cây thơm nấu lên gọi là nước liên chi hay giấy điều thấm ẩm. Về ánh sáng đêm diễn, ở đám ít người thường chỉ có vài đĩa đèn dầu lạc, ở sân đình đêm hội với đông người xem thường có một số cây đuốc, cây nến lớn đã ngâm muối lâu ngày để cháy chậm, khi khá giả thì dùng vài cây đèn dầu hỏa... Sân khấu biểu diễn của hầu hết các gánh hát xưa thường là chiếu trải trước sân, người xem bao quanh ba mặt, không có phông cảnh trang trí. Đó là điều khác biệt nhất giữa chèo dân gian với chèo hiện đại. 

Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, ngoài ba làng chèo nổi tiếng là Hà Xá, Khuốc, Sáo Đền với những gánh chèo truyền đời, còn có các gánh chèo được dân gian truyền tụng như: Tống Văn, Bồ Xuyên, Lạc Đạo, Kỳ Bá, Đoan Túc, nay thuộc thành phố Thái Bình. Thanh Nê, An Cơ, Đồng Xâm, Thượng Phúc, Luật Nội, Luật Ngoại, Đồng Vàng, Động Trung, nay thuộc huyện Kiến Xương. Thuận An, Kiều Thần, Nguyệt Lãng, Đồng Đại, La Uyên, Huyền Sỹ, nay thuộc huyện Vũ Thư. Thượng Liệt, Thượng Tầm, Lịch Động, Nguyên Xá, Tăng, Phạm, Khuốc, Tuộc..., nay thuộc huyện Đông Hưng. Các xã Thụy Hà, Thụy Phong, Thụy Hồng, Thái Giang, Thái Sơn, Thái Phúc của huyện Thái Thụy. Các xã An Lễ, An Vũ, Quỳnh Hải của huyện Quỳnh Phụ... 

Vào những năm thuộc nửa đầu thế kỷ XX các gánh hát muốn hành nghề kiếm sống được phải diễn cả chèo lẫn tuồng. Theo yêu cầu của người xem ở nơi gánh hát đến, các nghệ nhân thường “lẩy” ra những tích ngắn (nay thường gọi là trích đoạn) như Thị Màu lên chùa, Súy Vân giả dại, Phù thủ Cô đồng, Thầy bói... Trong một gánh hát thường có người tinh về hát chèo, có người sành về hát tuồng hoặc thiện nghệ sắm một số vai chèo, vai tuồng nào đó để rồi xem diễn xong cả làng nhớ mãi, làng nọ kháo nhau với làng kia, lần sau khi làng kéo đám lại nhớ tìm đến mời gánh hát. Thường thì gánh hát nhỏ có khoảng 7 - 8 người, gánh hát lớn có khoảng 12 - 15 người. Ở thời điểm ăn ra làm lên nhất thì gánh hát của cụ Tổng Tố ở làng Sáo Đền có tới hơn 20 người. Phần nhiều các gánh có cả nam và nữ nhưng cũng có gánh chỉ toàn nam. Các đấng mày râu phải phân chia nhau sắm đủ loại vai từ kép đến lão, từ đào đến mụ, chẳng kể chín, lệch, ngang hay chua, ngọt, điên; người có khiếu bông lơn thì sắm vai hề. Sở dĩ có gánh chèo toàn nam giới là vì ông trùm muốn giữ cho mình, tránh bị mang tiếng với vợ con và làng xã nên không kén nữ vào gánh, cũng bởi đi diễn xa hàng mấy tháng mới về, đàn bà con gái đi cùng thì không tiện... 

Thông thường các đào, kép tham gia gánh hát vẫn là “dĩ nông vi bản”. Vào mùa vụ họ thường ở quê lo cấy gặt. Mặt khác, đa phần các làng vào đám thường là vào những ngày nông nhàn theo chu trình của hai vụ lúa chiêm, mùa. Khi công việc đồng áng xong, được ông trùm báo là cùng nhau tụ tập, tập luyện qua loa, thống nhất lịch trình rồi lên đường. Nhiều khi đi dọc đường vừa đi vừa tập. Thường thì đêm diễn trò cũ, ngày tranh thủ tập trò mới cho vốn liếng của gánh ngày thêm phong phú. Khi đi diễn, các thành viên trong gánh thường phải tay xách nách mang, ngoài tư trang cá nhân còn phải mang theo trang phục, nhạc cụ, đạo cụ, phông màn của gánh đi cùng. Ngoài ra còn lỉnh kỉnh đủ thứ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày như trầu cau, thuốc lào, rượu trắng, cũng có khi phải mang theo cả gạo, thức ăn khô như vừng, lạc, mắm muối đi cùng để giảm bớt được chi tiêu ở nơi đất khách. 

Ngoài đi hát ở các hội làng, các gánh hát còn thường được mời đến phục vụ các đám tang của những gia đình khá giả để thực hiện các nghi thức chiêu linh, dẫn hồn, hát múa khai quan, yểm huyệt, kể thập ân, chèo đò. Nhà giàu có thường làm ma đến vài ba ngày, chật ních người trong làng ngoài xã kéo nhau đến xem. 

Từ khi xảy ra nạn đói năm 1945, hầu hết các làng quê ở trong và ngoài tỉnh không có điều kiện để mở hội làng. Các gánh chèo không hành nghề được và tự tan dần.

Thạc sĩ NGUYỄN TÔ LỊCH
(Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình)