Thứ 4, 30/04/2025, 11:54[GMT+7]

“Hộ phụ sinh hổ tử” trong làng văn, làng báo Việt Nam

Thứ 4, 03/02/2016 | 10:05:01
3,457 lượt xem
Trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi và sự nghiệp của Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ (1861 - 1908), quê làng Thượng Phán, tổng Đồng Trực, nay thuộc xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ và con trai của ông là Đào Trinh Nhất (1900 - 1951) đã từng được đưa vào nhiều bộ từ điển với vị thế của những danh nhân đất Việt lẫy lừng công danh trong nghề báo, nghiệp văn, từng được đặt tên cho đường phố ở một số thành phố trong Nam, ngoài Bắc.

Đại Nam Đồng Văn nhật báo số 8 năm 1891. Nhờ số báo này mà ta biết được tờ đầu tiên ra ngày 30/8/1891.

Đào Nguyên Phổ là một danh sĩ đa tài, đa năng, sáng láng khoa danh, có cuộc đời kỳ diệu, chí khí khác thường. Là một thần đồng tắm mình trong Nho giáo, ở tuổi 17, chàng trai họ Đào làng Thượng Phán đã thi đậu cử nhân, được coi là một trong những trường hợp hy hữu trong lịch sử khoa cử của nước nhà. Chưa đủ tuổi bổ quan, vị cử nhân trẻ này đã đi dạy học ở Duyên Hà (Thái Bình), Phù Cừ (Hưng Yên), ít lâu sau được bổ nhiệm làm giáo thụ (học quan) ở Tam Nông (Phú Thọ) rồi tri huyện Võ Giàng (Bắc Ninh). Vì để xảy ra vụ mất trộm tiền thuế ở huyện đường, tri huyện họ Đào đã bị bãi chức. Rời chốn quan trường, ông đã đi giao du với nhiều danh sĩ ở Bắc kỳ, sau tìm vào Huế học ở Quốc Tử Giám và thi đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, được sung chức Hàn lâm thừa chỉ, được tuyển chọn vào lớp học tiếng Pháp tại Pháp tự quốc gia học đường (một lớp học dành riêng cho các vương tôn, công tử trong hoàng gia và một số ít vị đại khoa trẻ).

Bản tính phóng khoáng, giàu sở thích hoạt động văn chương, đặc biệt là hoài bão muốn canh tân đất nước đã dẫn đến việc Đào Nguyên Phổ từ quan để ra Hà Nội sau hơn một năm bị bó thân ở triều đình Huế. Đây là quãng thời gian để Đào Nguyên Phổ lại có dịp kết bạn tâm giao với những yếu nhân yêu nước ở Bắc kỳ, nuôi chí hướng thực thi hoài bão của mình.

Năm 1903, ông cộng tác với một người Pháp và đứng ra làm chủ bút tờ Đại Nam đồng văn nhật báo, tờ báo đầu tiên bằng chữ Hán xuất hiện ở Hà Nội, dưới sự chi phối của Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ. Năm 1905, khi vẫn làm chủ bút tờ Đại Nam đồng văn nhật báo, Đào Nguyên Phổ lại kết hợp với một người Pháp khác lập tờ Đại Việt tân báo. Đây là tờ báo tư nhân đầu tiên ở Hà Nội. trụ sở đặt tại 90 Hàng Mã, đồng thời cũng là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội có cả phần chữ Hán và phần chữ quốc ngữ với số lượng bạn đọc khá lớn. Năm 1907, tờ Đại Nam đồng văn nhật báo đổi tên thành Đăng cổ tùng báo. Phần chữ Hán do Đào Nguyên Phổ làm chủ bút, phần chữ quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút.

Năm 1907, Đào Nguyên Phổ tham gia sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, dạy học theo lối mới, không lấy tiền, thu hút cả học sinh tiểu học, trung học và đại học. Ông đã viết nhiều cuốn sách giáo khoa với tư tưởng tiến bộ và trực tiếp giảng dạy, được sử sách ghi nhận là một sáng lập viên hàng đầu và đã có những đóng góp quan trọng vào các hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục.

Cuối năm 1907, Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, nhân có vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội bị lộ, các yếu nhân của phong trào bị truy lùng gắt gao. Đào Nguyên Phổ lẩn tránh trong một nhà người bạn ở phố Hàng Than, mấy tháng sau đó, biết khó thoát thân và không muốn gây hệ lụy cho bạn, ông đã tuẫn tiết tại nhà bạn vào ngày 22 tháng 6 năm 1908. Bạn bè và gia đình đã bí mật đưa thi hài ông về quê an táng.

Sự nghiệp để đời của Đào Nguyên Phổ khá đồ sộ với những trước tác về lịch sử, văn chương, báo chí và giáo dục. Nhiều nguồn sử liệu đã khẳng định ông là nhà chí sĩ kiên trung, nhà báo tiên phong, nhà giáo dục mang tư tưởng canh tân.

Nếu như lịch sử báo chí Việt Nam ghi nhận Đào Nguyên Phổ thuộc thế hệ khơi nguồn dẫn mạch, xây móng đắp nền thì con trai ông là Đào Trinh Nhất lại được đánh giá là thế hệ nhà báo chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam, đồng thời cũng là người ra số báo xuân đầu tiên trong lịch sử báo chí nước nhà.

Năm 1907, Đào Trinh Nhất mới 7 tuổi đã được cha đưa vào thụ giáo tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Khi trường bị đóng cửa và cha tuẫn tiết, Đào Trinh Nhất được gia đình cho theo học chữ Hán 10 năm tại Hà Đông. Đến năm 18 tuổi được vào học tại Quốc Tử Giám ở Huế. Nối chí cha, chàng thanh niên họ Đào không mơ tưởng đến chuyện học để làm quan mà đã dấn thân vào nghề báo, nghiệp văn.

Năm 20 tuổi, Đào Trinh Nhất nhận lời làm cộng tác viên, chuyên viết xã luận cho tờ Thực nghiệp dân báo, hai năm sau nhận làm biên tập viên tờ Hữu Thanh, vốn khi ra đời tờ báo này do Tản Đà làm chủ bút, liền sau đó được mời phụ trách chính Đông Pháp thời báo (phụ trương tiếng Việt của tờ France - Indochine).

Một bước ngoặt lớn trong cuộc đời giúp Đào Trinh Nhất trọn đời theo nghề báo là đầu năm 1926, ông được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí của Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng đại học báo chí. Những năm học tại trường, ông có tham gia viết báo Việt Nam hồn.

Khi trở về nước, Đào Trinh Nhất đã trở thành một nhà báo có danh tiếng, được nhiều tờ báo trong nước mời cộng tác. Thời gian đầu, ông viết nhiều cho báo Công luận và báo Thần chung. Năm 1929, ông được mời làm chủ bút tờ Phụ nữ tân văn, sang năm sau kiêm luôn chủ bút tờ Đuốc nhà Nam và mở ra kỷ nguyên mới về báo xuân từ năm 1934. Năm 1936, Đào Trinh Nhất sáng lập tờ báo Mai. Do có nhiều bài viết ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, ca ngợi Đông Kinh Nghĩa Thục và các tấm gương yêu nước nên vào giữa năm 1939, nhà cầm quyền đã ra lệnh khẩn cấp trục xuất Đào Trinh Nhất khỏi Nam kỳ và bị giải về Hà Nội.

Trong khoảng 10 năm ở Hà Nội, ngoài việc làm chủ bút cho các báo: Trung Bắc chủ nhật, Ngày mới, Cải tạo…, ông còn có nhiều bài viết sắc sảo cho nhiều tờ báo đương thời như Nước Nam, Việt thanh, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy… Năm 1949, Đào Trinh Nhất trở lại Sài Gòn, được mời làm tham vụ báo chí trong nội các của chính quyền Nguyễn Phan Long và tiếp tục viết nhiều cho các báo Ánh sáng, Sài Gòn mới, Dân thanh… ông đột ngột qua đời ngày 23 tháng 2 năm 1951 trong khi đang dịch dở cuốn Liêu trai chí dị.

So với người cha của mình thì sự nghiệp trước tác trong nghề báo, nghiệp văn, dịch thuật của Đào Trinh Nhất có phần đồ sộ hơn, sức viết, sức làm việc của ông thật khôn lường. Nét tương đồng giữa hai cha con họ Đào làng Thượng Phán là dốc chí, dốc tâm, dốc sức viết báo, viết văn, viết sử và dịch thuật cốt là nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc, cổ súy lòng yêu nước. Dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà cầm quyền, nhiều tác phẩm của hai cha con ông đã phải lựa cách viết khôn khéo để tùy theo từng thời điểm có thể công bố được. Tư tưởng tiến bộ và trước tác của hai cha con Đào Nguyên Phổ - Đào Trinh Nhất không chỉ mang giá trị vô cùng quý giá cho làng báo, làng văn Việt Nam mà còn là những di sản trường tồn cùng đất nước.

Nguyễn Thanh
(Vũ Quý, Kiến Xương)

  • Từ khóa