Thứ 6, 28/02/2025, 09:20[GMT+7]

Kỷ niệm 290 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (2/8/1726 - 2/8/2016) Sao sáng trời Nam

Thứ 6, 22/07/2016 | 19:17:56
1,020 lượt xem
Theo các nguồn khảo luận, hai cha con Lê Trọng Thứ và Lê Quý Ðôn cùng làm quan ở kinh đô và cùng có năng lực làm việc và cống hiến tốt, nhân cách lớn, có uy tín cao nên luôn là mối lo ngại cho đám quan đại thần xu nịnh. Do vậy, âm mưu tách hai cha con trong triều để kẻ ngoài bắc, người đàng trong là việc họ tính đến. Lão thần Lê Trọng Thứ tuổi đã cao thì không thể đưa ông vào đàng trong làm quan được, Lê Quý Ðôn đang tuổi trẻ, tách ra đưa đi xa là việc làm khả quan. Năm

 

BÀI 4: “QUÁ VẠN LÝ, NÁT VẠN THƯ”

 

Nghịch cảnh trớ trêu khi người cha Lê Trọng Thứ tuổi đã ngoài bảy mươi vẫn miệt mài làm việc chốn quan trường còn Lê Quý Đôn đang lúc sung mãn, học hành, đỗ đạt cao lại về quê ở Diên Hà viết sách. Lê Trọng Thứ không nản mà quyết chí làm việc bởi hơn ai hết ông hiểu nhân cách, trí tuệ con trai mình. Người cha tiên đoán Lê Quý Đôn về quê viết sách trong giai đoạn đương thời là tốt hơn hết. Sau đó, Lê Trọng Thứ lại được Trịnh Doanh phong chức Phó đô ngự sử, Tả thị lang bộ hình, Tả thị lang bộ công. Sử cũ ghi, năm Quý Tỵ 1773, Lê Trọng Thứ vừa tròn tám mươi tuổi, ông dâng sớ về trí sĩ lần nữa nhưng Trịnh Sâm quyết không đồng ý. Nếu như năm bốn mươi tuổi, ông dâng sớ, Trịnh Doanh không cho thì lúc “nước sôi, lửa bỏng” đối với nhà Trịnh, Trịnh Sâm cũng không đồng ý bởi Trịnh Sâm ý thức được rằng, nếu để ông về nghỉ tức là triều đình mất đi một “cây cao, bóng cả”. Trong tấu trình của mình, ông rập đầu kêu chúa ông phò ba đời chúa, tận tâm tận lực hơn 50 năm phụng sự triều chính, thân già, ông xin được nghỉ ngơi. Không còn cách nào khác, Trịnh Sâm đành cho ông nghỉ. Lần này, Trịnh Sâm lại tự tay viết tặng ông bốn chữ: “Đặc huệ hảo âm” nghĩa là “Ơn huệ đặc biệt, tiếng tăm tốt đẹp”. Trịnh Sâm còn tặng đôi câu đối:

 

“Xuân mị bát tuần thiên hạ lão

Cẩm hoàn lưỡng độ thế gian tiên”

Tạm dịch là:

“Ông già thiên hạ tám chục xuân vui

Vị tiên thế gian hai lần trí sĩ mặc áo gấm về quê”

 

Triều đình nhà Trịnh ba đời trọng dụng và đối xử ân tình với Lê Trọng Thứ, bậc lão quan trong triều đủ để thấy tầm quan trọng của ông với nhân thế. Đức hạnh và tài năng của ông với nhà Trịnh là một đóng góp vô cùng to lớn. Ngoài những ân điển với Lê Trọng Thứ, nhà Trịnh đối xử với Lê Quý Đôn cũng hết sức đầy đặn. Sau này, các nhà nghiên cứu lịch sử đã phát hiện 9 bút tích khắc trên đá của “Nhật Nam nguyên chủ”, tức chúa Trịnh Sâm, ký dưới cùng là Cao Bác. Theo luật lệ thời đó, những người được vua chúa sai viết chữ nhất thiết phải ghi rõ họ tên, viết chữ nhỏ dưới cùng để tỏ rõ sự cung kính. Vì thế các nhà nghiên cứu đã tìm cách tra đoán và đi đến thống nhất người được phép ngoại lệ chỉ ghi “Cao Bác” có lẽ là Lê Quý Đôn bởi hai lẽ: chúa Trịnh Sâm kinh lý xứ Thanh vào mùa đông năm Canh Dần (1770) đến đầu mùa xuân năm Tân Mão (1771), thời gian này Lê Quý Đôn đang làm quan ở Thanh Hóa. Trịnh Sâm là người rất sính chữ nghĩa và nể trọng những nhà nho uyên bác, đỗ đạt cao nên có thể đã vời Lê Quý Đôn cùng đi đàm đạo, ngâm vịnh, viết sáng tác của nhà chúa và làm ngơ khi bảng nhãn họ Lê không viết danh tính cụ thể xuống dưới mà chỉ ghi là “Cao Bác”.

 

Theo cách suy đoán như vậy, Lê Quý Đôn đã có dấu chân ở hầu hết danh lam ở xứ Thanh, từ miền núi Cẩm Thủy đến các miền xuôi Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc, Nga Sơn… và cũng như một số danh nho tỉnh ngoài khác, ông đã có một số đóng góp vào sự phát triển của Thanh Hóa đến nay vẫn còn nguyên dấu tích. Bảng nhãn Lê Quý Đôn giữ nhiều chức vụ dưới triều Lê Trung Hưng và làm quan ở nhiều địa phương trong nước từ Lạng Sơn đến Thuận Hóa. Đặc biệt, có một thời gian khoảng 2 năm ông giữ chức ở Thanh Hóa. Sử chép: Khoảng tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769), viên bộ tướng của Lê Duy Mật (một người tự xưng là hoàng tộc của nhà Lê) là Lê Đình Bản kéo quân từ Lào về đánh phá Thanh Hóa, triều đình cử Lê Quý Đôn làm Tán lý quân vụ vào dẹp. Đến năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770), Lê Quý Đôn được thăng chức Công bộ hữu thị lang và cử ở lại Thanh Hóa làm nhiệm vụ điều tra, nắm tình hình hộ khẩu, binh lính sau giai đoạn loạn lạc. Cũng theo nhận định của các sử gia thì “trong khoảng 2 năm trấn trị ở Thanh Hóa, Lê Quý Đôn đã đi đến nhiều địa phương trong tỉnh để trực tiếp tìm hiểu tình hình và có một số đề xuất lên triều đình nhằm giúp địa phương ổn định chính trị và phát triển kinh tế. Trong thời gian trấn trị ở Thanh Hóa Lê Quý Đôn đã viết tác phẩm “Đại Việt thông sử” mà phần lớn nội dung chủ yếu nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, một số người trong hoàng tộc thời Lê sơ và các nhân vật xứ Thanh thời bấy giờ. Tác phẩm này là một cống hiến của nhà bác học Lê Quý Đôn đối với nước ta nói chung và Thanh Hóa nói riêng. Nhiều tư liệu đề cập trong tác phẩm chứng tỏ Lê Quý Đôn đã có công nghiên cứu, khảo sát xứ Thanh khá tường tận. Khi nghiên cứu về danh nhân Lê Niệm (con danh thần Lê Lai) tại khu di tích ở xã Hoằng Hải, Hoằng Hóa đã phát hiện thấy chiếu chỉ, sắc phong thời Lê Sơ, mà trong sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn đã đề cập đến, điều đó chứng tỏ ông đã khảo sát khu di tích này khi viết về Lê Lai, Lê Niệm, Lê Chí…”.

 

Bước ngoặt lớn của cuộc đời quan lộc của Lê Quý Đôn là khi vua Lê Ý Tông qua đời năm 1760, triều đình cử ông làm phó sứ trong đoàn sứ bộ sang nhà Thanh báo tang. Đi sứ là nguyện vọng của Lê Quý Đôn bởi ông muốn đi nhiều, biết rộng, không thỏa mãn với mớ kiến thức đã đọc được từ trong sách vở. Ông ao ước mở rộng tầm nhìn ra nước ngoài để tích lũy thêm tri thức phụng sự quốc gia, dân tộc. Với ông, đi sứ là một thể nghiệm ước vọng: “Nghĩ hướng Trung triều khoa đặc đạt” (Muốn hướng về triều đình Trung Quốc để khoe điều xuất chúng của mình) và cũng là để thực hiện chủ trương “hảo bả văn chương tăng quốc thể”. Và tất cả đoạn trường đi sứ của Lê Quý Đôn trong những năm 1760 - 1762 được ông ghi chép, tường tận, đầy đủ thành cuốn “Bắc sứ thông lục”. Trong chuyến đi sứ, tài ứng đối, biện bác phi phàm của ông khiến các bậc danh nho nhà Thanh coi như thần như thánh. Đáng chú ý là Lê Quý Đôn đã mang những tác phẩm của ông như Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Tiểu tương bác vịnh… cho các nho thần danh cao vọng trọng của nhà Thanh như Binh bộ thượng thư Lương Thi Chính, Công bộ thượng thư, nhà nghiên cứu văn tự cổ, Tiến sĩ Quy Hữu Quang, Trợ giáo Trương Nguyên Quang… xem và đề tựa. Được tiếp kiến, lại được đọc sách của ông, các nho sĩ Trung Quốc ai nấy đều khâm phục, coi ông là “Thạc học phương Nam”. Chu Bội Liên, một học giả nổi tiếng đời Thanh đã phải thốt lên: “Nước tôi có nhiều nhân tài nhưng những người có tài như sứ quân chỉ được một vài”. Một lần, Chu Bội Liên tranh luận với Lê Quý Đôn về việc thành quách của nước ta xây không đúng quy cách, Lê Quý Đôn dẫn ngay sách Hoàng Minh thông ký của Trung Quốc, sách ghi sự kiện kinh sư của Trung Quốc ngày nay có chín cửa và công đường có sáu bộ, dinh thự là do quan thái giám nước Đại Việt xây dựng vào năm Vĩnh Lạc (1403 - 1424) nhà Minh để khẳng định rằng quốc gia Đại Việt không những lắm tài nghệ mà thành quách xây cũng nhiều, nhưng chúng ta đã phải phá hết và đào hào, đắp lũy để sẵn sàng nghênh chiến các cuộc xâm lăng của phương Bắc tràn xuống mà thôi!

 

Sau khi đi sứ về, Lê Quý Đôn được thăng thưởng chức Hàn lâm viện thừa chỉ và được chọn làm Học sĩ của Bí thư các. Trong hai năm đi sứ, ông đã thực hiện được chủ trương “Hành quá vạn lý lộ, độc phá vạn quyển thư”, nghĩa là “Đi quá vạn dặm đường, đọc nát vạn quyển sách”. Năm 1764, sau nhiều năm trăn trở, Lê Quý Đôn quyết định dâng sớ xin thiết định pháp chế. Sách Lê Quế Đường tiên sinh tiểu sử chép lại bản sớ, có đoạn: “Bỏ mất lòng dân không phải là cái đạo xếp yên mối loạn mà cái kế để xếp yên mối loạn cũng không phải là nhân tuần và nói suông vậy… cho nên đấng anh quân phải đặt ra pháp chế để nắm vững quốc gia mà dùng cái nguyên lý “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ tề” (lấy đức mà đưa đường cho dân, lấy lễ mà làm cho dân nhất trí) của Khổng Tử mà xen vào trong đó, như thế mới sửa được nhân tâm một nước, làm thành phong tục trăm đời được”. Trước Lê Quý Đôn, thời Lý đã có Hình thư, thời Trần có Quốc triều hình luật và thời Lê có Bộ luật Hồng Đức tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ. Lê Quý Đôn muốn thiết định luật pháp nhằm cứu vãn thực trạng xã hội phong kiến đang bên bờ vực suy tàn. Dâng sớ thiết định không thành, không được triều đình nhòm ngó tới, ông liền dâng tiếp tờ khải điều trần về tệ tham quan ô lại, khẩn hoang, mở đồn điền cho dân đỡ khốn đốn…, nào ngờ bọn xu nịnh muốn bật ông ra ngoài trấn ải nên luôn tâu với chúa Trịnh những điều không tốt đẹp về ông. Mộng kinh bang tế thế không thành, ông viết tờ khải xin cáo quan. Tờ khải với lời lẽ thành kính, khiêm nhường nhưng đầy chua xót: “Thần đem cái thân sống sót ở muôn dặm trở về nước, mà nay xiêu dạt nơi giang hồ, xin cho thần được về quê quán”. Nhận khải, chúa Trịnh Doanh không bằng lòng cho Lê Quý Đôn từ quan, bọn nịnh thần xúi vào, Trịnh Doanh liền phê vào tờ khải của ông: “Làm quan Đốc đồng tham chính thì có gì là xiêu dạt giang hồ, học rộng để làm chi, chẳng qua chỉ để giúp thỏa lòng riêng tây của mình thôi” và ra lệnh bãi chức ông! “Quá vạn lý, nát vạn thư” thật là chua xót.

 

(Còn nữa)

QUANG VIỆN

  • Từ khóa