Thứ 7, 10/05/2025, 10:26[GMT+7]

Hãy giữ lấy hồn cốt nhân văn của lễ Vu lan

Thứ 2, 15/08/2016 | 08:40:37
1,465 lượt xem
Từ xa xưa, Việt Nam và Trung Quốc cùng một số nước theo đạo Phật thuộc hệ thống Hán ngữ vẫn gọi tiết rằm tháng bảy là lễ Vu lan. Cũng lại vì Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hán nên đã không ít người thường quan niệm lễ tiết của người Việt, trong đó có tiết Trung Nguyên (lễ Vu lan) là do chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc. Có lẽ, hiểu như vậy chỉ mới đúng được một phần bởi vì lễ Vu lan báo hiếu có xuất xứ từ điển lệ của Phật giáo chứ không phải từ Trung Quốc.

Nghi thức cài hoa hồng trong lễ Vu lan báo hiếu. Ảnh: Thành Tâm.

 

Xưa và nay, theo phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian thì trong tâm thức của người Việt “cúng cả năm không bằng rằm tháng bảy”. Trong một năm có “tứ thời bát tiết” thì tiết rằm tháng bảy được gọi là tiết Trung Nguyên. Dân gian có câu “Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân”. Trong tín ngưỡng thờ cúng gia tiên, đa phần người Việt rất chú trọng việc cúng bái vào ngày rằm tháng bảy. Tục đốt vàng, đốt mã cũng thường được quan tâm vào dịp này.

 

Những năm gần đây, các sự lệ thờ cúng gia tiên ở các gia đình cũng như việc cúng dường chư Phật và chúng tăng ở các chùa càng ngày càng được các giai tầng xã hội quan tâm. Về một góc nhìn nào đó, câu thành ngữ “phú quý sinh lễ nghĩa” ứng với tục đốt vàng, đốt mã đã được biểu hiện rất rõ mặt trái của nó theo vòng xoáy của cơ chế thị trường.

 

Khá đông những gia đình có kinh tế khá giả và một bộ phận không nhỏ các gia đình cán bộ có chức quyền, có lương lộc thường rất chú trọng việc đốt vàng, đốt mã cho người thân đã quá cố và cho cả các đấng thần linh siêu nhiên theo quan niệm “trần sao âm vậy”. Ðáng thương và cũng thật đáng trách là ngày càng có không ít gia đình kinh tế vốn còn đang eo hẹp nhưng vì mê muội nên cũng đã chạy theo tục đốt vàng, đốt mã quá xa xỉ dẫn đến mang công mắc nợ, lẽ ra không đáng có.

 

Từ các nguồn kinh sách của nhà Phật cùng các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về cội nguồn sâu xa của tục “Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân” này và những biến tướng đáng thương, đáng trách của nó ở đất nước ta trong xã hội hiện nay.

 

Trong số kinh sách của đạo Phật có một quyển kinh mang tên Vu lan bồn mà người Việt ta thường gọi là kinh Vu lan. Vu lan bồn vốn là phiên âm chữ Hán, từ chữ Phạn là Ullambala (Ô lam bà noa). Hiểu một cách nôm na thì “bồn” là vật dụng đựng thức ăn. Vu lan bồn hay còn được gọi là Vu lan bồn hội hoặc bồn hội vốn là thuật ngữ để chỉ nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hàng năm căn cứ vào lời dạy trong kinh Vu lan bồn tại các quốc gia và vùng lãnh thổ theo Phật giáo thuộc hệ thống Hán ngữ. Thế nhưng, dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Hán là cả một vấn đề được giới nghiên cứu Phật học trên thế giới tốn không ít giấy mực để luận bàn.

 

 

Luôn vui vẻ, hạnh phúc - đó cũng là cách mỗi người báo hiếu với cha mẹ, nụ cười của con là niềm hạnh phúc vô bờ bến của bậc sinh thành.

 

Khởi nguồn của thuật ngữ Vu lan bồn đã xuất hiện từ rất sớm trong nhiều bộ sử thi thời cổ đại của Ấn Ðộ. Theo kinh Vu lan, đệ tử Phật là ngài Mục Liên dùng thiên nhãn thông thấy thân mẫu bị đọa vào đường quỷ đói, gầy ốm chỉ còn da bọc xương, ngày đêm khổ não liên tục. Thấy vậy, ngài Mục Liên dùng bát đựng cơm đưa đến dâng cho mẹ nhưng do chịu quả báo của nghiệp ác nên cơm biến thành lửa. (Mẹ của ngài Mục Liên là bà Thanh đế, lúc còn sống tham lam tiền của, tạo nhiều nghiệp ác cho nên sau khi chết phải đọa vào đường quỷ đói, không được ăn uống). Ðể cứu mẹ thoát khỏi nghiệp khổ này, ngài Mục Liên bèn xin đức Phật chỉ dạy cách giải cứu. Phật liền dạy ngài Mục Liên vào ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tự tứ (ở Ấn Ðộ, chư tăng kết hạ an cư trong ba tháng, đến rằm tháng bảy là kết thúc), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu lan cúng dường tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ từ bảy đời.

 

Trong kinh Vu lan có câu: “Là người đệ tử Phật tu hiếu thuận, phải thường nhớ cúng dường cha mẹ trong từng niệm, cho đến bảy đời, hàng năm vào ngày rằm tháng bảy thường đem tâm hiếu thuận nhớ đến cha mẹ đã sinh ra mình, cho đến bảy đời, lập Vu lan bồn cúng dường chư Phật và chúng tăng để báo đền ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ”.

 

Khá nhiều cuốn kinh của nhà Phật đã dẫn truyện về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử cổ đại của Ấn Ðộ từng đã theo gương Mục Liên làm lễ cúng dường cha mẹ vào ngày rằm tháng bảy. Kinh Ðại bổn tịnh độ đã nêu các tấm gương của vua Bình Sa, cư sĩ Tu đạt, phu nhân Mạt Lợi... đã theo phương pháp của Mục Liên, làm 500 bồn vàng đựng thức ăn dâng cúng Phật và chúng tăng để cầu diệt trừ tội nghiệp của cha mẹ bảy đời.

 

Như vậy, tục dâng cúng thức ăn để báo đền ân đức cha mẹ, tổ tiên vào ngày rằm tháng bảy hàng năm ở nước ta vốn có cội nguồn từ kinh sách của nhà Phật chứ không hẳn là từ Trung Quốc. Nên nhớ rằng, Phật giáo vào Việt Nam từ hai con đường: các nhà tu hành đạo Phật từ Ấn Ðộ vào Việt Nam truyền giáo từ khá sớm rồi tiếp đó mới có các thiền sư Trung Quốc vào hành đạo.

 

Mặt khác, vốn từ cổ xưa những đệ tử nhà Phật tu hành hiếu thuận đã lập Vu lan bồn cúng dường chư Phật và chúng tăng ở các chùa vào ngày rằm tháng bảy để báo đền ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, nhưng khi vào Việt Nam nó đã được tiếp nhận và tiếp biến để dung hòa với tín ngưỡng thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Theo truyền thống tín ngưỡng của người Việt, vào dịp rằm tháng bảy, ngoài nghi thức cầu siêu độ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên ở chùa của các Phật tử thì ở mỗi gia đình sự lệ thờ cúng gia tiên cũng được chú trọng. Ðó là một tín ngưỡng giàu tố chất nhân văn, giàu bản sắc dân tộc.

 

Lại cũng phải thấy rằng, trong các kinh sách của nhà Phật không thấy có quyển nào nói đến việc phải đốt vàng, đốt mã vào ngày rằm tháng bảy để báo đền công ơn cha mẹ, tổ tiên. Thế nhưng, chưa rõ từ bao giờ, theo tín ngưỡng của người Việt, cứ vào dịp rằm tháng bảy lại có tục đốt vàng, đốt mã cho người thân đã quá cố.

 

Mấy năm gần đây, vào dịp lễ Vu lan, đã có phần đông tín đồ Phật tử và một bộ phận công dân thuộc giới thượng lưu năng đến chùa lễ bái thường rất chú trọng việc sắm sửa đồ mã để dâng cúng cho những người thân đã quá cố. Thường là lễ Vu lan được cử hành ở chùa còn việc đốt mã được triển khai tại nhà. Có không ít tăng, ni được mời đến các gia đình hành lễ để tiến hành nghi thức đốt mã.

 

Cũng cần phải thấy thêm là, những năm gần đây, không chỉ rằm tháng bảy mà còn với nhiều sự lệ khác diễn ra tại chùa cũng có tục đốt mã. Chẳng hạn như lễ cầu siêu độ cho người quá cố đến 49 ngày hoặc 100 ngày, tại nhiều chùa ở cả thành thị và nông thôn nhiều khi có cả pháp sư và tăng, ni cùng phối hợp hành lễ, vừa có các tín đồ Phật tử cầu siêu vừa có các phương thuật bùa chú, cắt dây, trừ trùng... của pháp sư theo kiểu “đông, tây y kết hợp”. Ở những đám mà gia đình “có máu mặt” nếu nhà chùa phán là người thân chết vào “giờ xấu” thì nghi lễ thường rườm rà hơn, có khi việc lễ bái diễn ra đến một vài ngày, đồ mã các loại xếp chật cả sân chùa và đương nhiên khi đến dịp tiết Trung Nguyên thì việc theo đuổi các sự lệ ở chùa của những gia đình này cũng phải “chu đáo” hơn.

 

Thế mới hay, vào thời mở cửa, cái quan niệm “trần sao âm vậy” đã ngày một “thăng hoa” hơn trong lễ Vu lan (rằm tháng bảy) và nhiều tiết lệ khác vốn có xuất xứ từ đạo Phật. Cũng thật xót xa thay, sự “thăng hoa” đến mức thái quá đó đã ngày càng làm biến dạng thêm những nghi thức mang tính nguyên lý vốn đậm chất nhân văn của nhà Phật về việc cúng dường báo ân cha mẹ, gia tiên vốn đã được người Việt Nam ta tiếp nhận và dung hòa từ cổ xưa trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

 

Nguyễn Thanh

Vũ Quý, Kiến Xương

  • Từ khóa