Thứ 7, 16/08/2025, 02:41[GMT+7]

Góp ý kiến vào Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng Phát triển đô thị, công nghiệp lên miền núi là sự phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia

Thứ 5, 01/10/2015 | 08:05:08
936 lượt xem

Nước ta hiện được xếp vào hàng các nước đang phát triển với sự mở rộng mạnh mẽ của đô thị và khu công nghiệp. Các công trình này mỗi năm chiếm khoảng 70.000ha đất, chủ yếu là đất canh tác. Hầu hết các khu công nghiệp đã, đang xây dựng đều tập trung ở các tỉnh đồng bằng ven biển và một số tỉnh trung du, nơi địa hình bằng phẳng, giao thông thuận tiện. Hướng phát triển này tiềm ẩn những nguy cơ lâu dài về nhiều mặt.

Ngoài hệ quả nhãn tiền là hàng vạn hộ nông dân mất ruộng, các xí nghiệp xây dựng trên đất của họ thì không thu hút hết số lao động đó vào làm khiến họ trở thành người thất nghiệp. Nghiêm trọng hơn, có những dự án thu hồi đất hàng 7 - 8 năm để biến khu bờ xôi ruộng mật thành bãi cỏ um tùm. Nước ta hiện có trên 90 triệu dân, là nước có mật độ dân số cao của khu vực và thế giới. Diện tích đất canh tác của cả nước hiện còn gần 4 triệu ha. Với đà phát triển đô thị, khu công nghiệp như hiện nay thì vài chục năm sau, diện tích đất canh tác của nước ta sẽ còn lại bao nhiêu?

Đất trồng trọt ngày càng bị thu hẹp, ngoài việc do phát triển đô thị, khu công nghiệp thì còn do sự biến đổi khắc nghiệt của khí hậu. Nước biển ngày một dâng cao, hạn hán xảy ra thường xuyên nên những cánh đồng ven biển diện tích bị ngấm, ngập mặn ngày càng nhiều. Thêm vào đó, nạn phá rừng bừa bãi đã gây ra lũ ống, lũ quét, đem cát, sỏi phủ lên hàng trăm ha đất canh tác. Điều đáng lo hơn, trong một tương lai không xa, nước ta sẽ là 1 trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của hiện tượng nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Khi đó, 1/3 diện tích các đồng bằng ven biển sẽ bị ngập mặn.

Để nuôi sống trên 100 triệu dân trong vòng hơn 10 năm tới, theo các nhà khoa học, chúng ta phải có tối thiểu 3,8 triệu ha đất trồng lúa. Với quá trình thu hẹp đất canh tác của con người và thiên nhiên như hiện nay thì việc thiếu lương thực của nước ta không còn xa nữa. Ngoài những bất lợi trên, việc phát triển đô thị và các khu công nghiệp tập trung ở đồng bằng, ven biển còn gặp nhiều khó khăn khác như: công tác giải phóng mặt bằng rất chậm và tốn kém, có công trình chiếm tới 80% tổng kinh phí, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiến độ, giá thành và hiệu quả của dự án. Mặt khác, mật độ, quy mô các đô thị, khu công nghiệp cao sẽ gia tăng ô nhiễm khí quyển, địa quyển, gia tăng khoảng cách giữa miền ngược với miền xuôi và điều nguy hiểm nhất là nếu chiến tranh xảy ra thì các cơ sở kinh tế, quốc phòng ở đây dễ bị địch đánh phá, hủy diệt.

Để khắc phục những bất lợi, nguy cơ trên, bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững, theo tôi, việc phát triển đô thị và các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay nên hướng lên miền núi. Điều này sẽ mang lại những lợi ích tích cực sau: Hạn chế việc mất đất canh tác, bảo đảm an ninh lương thực lâu dài. Việc giải phóng mặt bằng sẽ nhanh chóng, giúp cho các công trình bảo đảm đúng tiến độ. Góp phần tích cực điều hòa mật độ dân số, làm cho miền ngược tiến kịp miền xuôi, chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng, Nhà nước trở thành hiện thực, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được vững mạnh.

Một điều quan trọng nữa là việc phát triển đô thị, khu công nghiệp lên miền núi sẽ tạo ra thế trận phòng thủ quốc gia vững vàng hơn. Bởi khi chiến tranh xảy ra, nơi nào trên đất nước cũng có lực lượng tại chỗ, hậu cần tại chỗ. Các nhà máy ở trong núi hay chân núi sẽ an toàn hơn các nhà máy ở đồng bằng, ven biển. Bài học kinh nghiệm của Liên Xô xưa kia chú ý phát triển kinh tế vùng Viễn Đông và Trung Quốc ngày nay đang đẩy mạnh phát trển kinh tế ở miền Tây toàn núi và cao nguyên hoang vu đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

Tóm lại, phát triển đô thị, công nghiệp lên miền núi tuy ban đầu việc xây dựng cơ sở hạ tầng có khó khăn, tốn kém hơn trong việc làm mới đường giao thông, hệ thống lưới điện, san ủi mặt bằng, cung ứng vật tư... nhưng về lâu dài đây sẽ là sự phát triển bền vững. Bởi hướng phát triển này sẽ bảo đảm an ninh lương thực, trong khi lĩnh vực quốc phòng cũng như chính sách bình đẳng dân tộc được thực thi đầy đủ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố vững mạnh, tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của tự nhiên, con người của cả đất nước được khơi dậy, phát huy.

Vũ Duy Yên
(Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình)

 

  • Từ khóa