Thứ 3, 09/09/2025, 02:31[GMT+7]

Không chỉ là đất lúa (Bài 5)

Thứ 6, 17/06/2016 | 09:05:18
1,665 lượt xem
Trong tốc độ tăng trưởng chung của ngành Nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020, ngành thủy sản đặt mục tiêu cao nhất với tốc độ trung bình đạt 6% và chiếm tỷ trọng 30%. Với tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng này, tỉnh tập trung phát triển những tiểu ngành nông nghiệp có giá trị gia tăng cao. Ðây là hướng đi đúng, trúng trong giai đoạn hiện nay nhằm phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của một địa phương ven biển.

Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng của gia đình anh Phạm Văn Mạnh ở thôn Bạch Đằng, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

 

Thế mạnh của tỉnh ven biển

 

Thái Bình có hệ thống sông dày đặc, nhiều ao đầm và bãi triều rộng lớn tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương đẩy mạnh phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản. Riêng vùng triều của tỉnh có khoảng 25.000ha với địa hình biển ven bờ tương đối bằng phẳng, sóng, gió nhỏ, tỷ lệ cát cao, độ mặn phù hợp để phát triển nuôi ngao. Thực tế cho thấy, từ năm 2009 trở lại đây diện tích, sản lượng ngao tăng khá mạnh, trong đó có một số năm việc mở rộng diện tích nuôi ngao của nông, ngư dân đến đỉnh điểm dẫn đến tranh giành diện tích bãi triều, mâu thuẫn ở một bộ phận dân cư… Tính riêng 6 tháng đầu năm 2016, sản lượng ngao nuôi đạt 35.100 tấn, tăng 12,86% so với cùng kỳ năm 2015.

 

 

6 tháng đầu năm 2016 sản lượng ngao nuôi của tỉnh đạt trên 35 nghìn tấn, tăng 12,86% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Cùng với phát triển nuôi ngao, một số đối tượng nuôi khác đang là thế mạnh của tỉnh như cá rô phi (khoảng gần 1.700ha), tôm thẻ chân trắng, tôm sú (gần 3.000ha) và một số loại cá chất lượng cao như cá vược, cá chép giòn… Ông Đào Đức Viện, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thái Thụy cho biết: 6 tháng đầu năm 2016, diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện đạt 4.154ha, trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản nước mặn đạt 1.114ha, diện tích nuôi trồng thủy sản nước lợ là 1.429ha, diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 1.601ha. Phát huy những thế mạnh là huyện ven biển, những năm qua huyện Thái Thụy đã không ngừng mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt, trong đó tập trung mở rộng diện tích nuôi cá rô phi. Ngoài cá rô phi, diện tích nuôi tôm hàng năm cũng được người dân mở rộng do hiệu quả kinh tế cao. Đến hết ngày 5/5/2016, toàn huyện đã thả nuôi được 178 triệu con giống trên tổng số gần 1.300ha. Qua thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2016, toàn huyện có khoảng 700ha nuôi cá rô phi nước ngọt, tập trung tại các khu vực chuyển đổi của các xã như Thái Hồng, Thái Tân, Thụy Thanh, Thụy Sơn… Sản lượng nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm 2016 của huyện ước đạt 24.919 tấn; tổng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản ước đạt hơn 217 tỷ đổng. Để đạt được những kết quả trên, thời gian qua, phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, đặc biệt chú trọng đến công tác cải tạo ao đầm, nạo vét đáy ao, phơi đầm…

 

Cùng với phát triển nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản cũng đạt kết quả khả quan. Đến nay, tổng số phương tiện hoạt động nghề cá trong toàn tỉnh là 1.210 phương tiện với tổng công suất 89.105CV. Đặc biệt, ngay khi Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai, thực hiện quyết liệt, bước đầu đạt kết quả khá. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã triển khai đóng mới 4 tàu cá theo Nghị định số 67 với tổng số tiền các ngân hàng thương mại cam kết cho vay 59,35 tỷ đồng.

 

 

Nuôi ngao ở Tiền Hải.

 

 Với sự nỗ lực của các cấp, ngành, địa phương và nông, ngư dân, tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2016 ước đạt 91.922 tấn, tăng 10,33%; giá trị thủy sản ước đạt 1.650,287 tỷ đồng, tăng 127,272 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2015.

 

Ðể trở thành ngành mũi nhọn

 

Thủy sản được xác định là ngành mũi nhọn trong phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản của tỉnh với hai tiểu ngành chính là nuôi trồng và khai thác. Tuy nhiên, hiện nay nuôi trồng và khai thác thủy hải sản vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Mặc dù có lợi thế về bãi triều rộng lớn và phù hợp với nuôi ngao, song chủ yếu phát triển tự phát, quy mô nuôi của các hộ gia đình nhỏ, chiếm khoảng gần 97% so với tổng diện tích nuôi ngao và sản lượng chiếm 93 - 94%, trong khi đó các doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất chỉ chiếm phần nhỏ còn lại. Các đối tượng nuôi khác chủ yếu nhỏ lẻ, năng suất, chất lượng chưa cao nên không tạo ra được sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các hộ dân nuôi trồng thủy sản dựa trên kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau trong quá trình sản xuất, việc áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý con giống, dịch bệnh trong nuôi trồng còn hạn chế. Mặt khác, sản phẩm thủy sản chủ yếu cung ứng cho các thương lái để đem đi các chợ, nhà hàng tiêu thụ, sản phẩm dành cho chế biến, xuất khẩu còn hạn chế. Đối với khai thác thủy sản, các hộ dân ven biển cũng chưa mạnh dạn đầu tư nhiều tàu công suất lớn và ngư cụ hiện đại để khai thác hải sản xa bờ nên ngư trường rộng lớn ở vùng biển vịnh Bắc Bộ nhiều nơi còn bỏ trống. Đồng thời, sản phẩm sau khai thác chưa được bảo quản tốt và thị trường tiêu thụ không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thương lái.

 

 

Nhiều diện tích nuôi trồng thủy sản ở hai huyện Tiền Hải, Thái Thụy cho hiệu quả kinh tế cao.

 

Để giá trị sản xuất thủy sản trở thành ngành mũi nhọn, các mục tiêu đến năm 2020 được tỉnh đề ra cụ thể như sản lượng ngao được tiêu thụ thông qua hợp đồng trên 10%; lượng giống thủy sản thả nuôi do địa phương tự cung cấp chiếm 75%; khoảng 25% sản phẩm thủy sản được chế biến; diện tích nuôi trồng là 16.300ha, sản lượng 175.500 tấn; sản lượng khai thác 70.000 tấn. Với mục tiêu này đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương phải thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính bền vững như tích tụ đất đai, thu hút doanh nghiệp đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ, quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng... Theo đó, các địa phương, hộ nuôi trồng thủy sản cần đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ để chủ động về số lượng, chất lượng con giống; kiểm soát hiệu quả các nguồn giống thả nuôi. Thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư sản xuất để doanh nghiệp trở thành đầu tàu trong việc tạo ra chuỗi giá trị, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Xây dựng chương trình nghiên cứu và xúc tiến thương mại cho lĩnh vực thủy sản như tuyên truyền giới thiệu sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tìm đối tác kinh doanh. Tìm kiếm và tạo điều kiện cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ, chế biến, bảo quản nông sản...

 

Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp không chỉ là nhiệm vụ cần làm ngay trong thời điểm hiện nay mà còn là bước đi lâu dài, do đó đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của các cấp, ngành, địa phương và người dân để Thái Bình không chỉ biết đến là đất lúa mà còn phát triển toàn diện các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản.

 

Nguyên Bình - Phạm Hưng

  • Từ khóa