Thứ 6, 29/03/2024, 21:41[GMT+7]

Nguyễn Thị Chiên - nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

Thứ 5, 02/06/2016 | 20:10:30
8,604 lượt xem
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thời kỳ nào cũng có những tấm gương phụ nữ anh hùng. Tiếp nối những trang sử hào hùng của phụ nữ Việt Nam, trong thời đại Hồ Chí Minh, người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là Nguyễn Thị Chiên.

Anh hùng Nguyễn Thị Chiên cùng chồng là Đại tá Vũ Anh Tài ôn lại kỷ niệm kháng chiến.

Bà được phong tặng danh hiệu cao quý này tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Việt Bắc ngày 1/5/1952. Năm ấy, Nguyễn Thị Chiên mới 22 tuổi, là nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình tại Đại hội.

Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại xóm Trại Đồng, xã Tán Thuật, nay là thị trấn Thanh Nê, huyện Kiến Xương. Nhà bà có năm anh chị em, bà là út. Gia cảnh khó khăn, sinh bà hôm trước hôm sau người mẹ đã phải ủ con trong gio bếp cho nóng để đi làm thuê, làm mướn. Nạn đói năm 1945 đã lần lượt cướp đi bốn anh chị của bà. Như cây non trồng trong đất cằn, bà lần hồi lớn lên từ dòng sữa của người mẹ. Đến lúc biết chui qua lỗ thủng của vách bếp thì bà đã phải đi ở mướn, bế con cho nhà giàu trong làng để kiếm ăn. Hai mạng sườn, hai cánh tay sưng tím bởi bị con nhà người ta cào cấu. Cơ cực đủ đường.

Con đường trở thành đội viên du kích của bà Nguyễn Thị Chiên rất tự nhiên và tự phát. Sau phong trào tiếng trống Tiền Hải năm 1930, Thái Bình trở thành điểm nóng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặc dù bị địch quây hãm, đàn áp nhưng phong trào ở đây không vì thế mà yếu đi. Mạng lưới cách mạng được nối nhịp, dựng xây, huyện Kiến Xương được chọn làm nơi hoạt động, đi về của các chiến sĩ cách mạng, của binh đoàn chủ lực. Do nhanh nhẹn và có chí khí từ bé, bà được các anh, các chị "rủ" vào du kích. Ngày ấy, bà cũng chẳng biết du kích là gì, chỉ biết đó là lực lượng ở địa phương, giúp các lãnh tụ, các lực lượng cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp, giúp dân nghèo không phải làm nô lệ, có ruộng và có cái ăn. Thế là bà thích và tham gia. Ban ngày đi làm thuê cuốc mướn, tối về nhà loanh quanh cám lợn, cám gà xong bà lại giả vờ tắt đèn đi ngủ, sau đó lẻn đến chỗ các anh, các chị du kích tập luyện và làm công việc các anh, các chị phân công: hôm thì lấy truyền đơn mang rải, hôm thì được giao nhiệm vụ canh gác bảo vệ vòng ngoài cho các cơ sở bí mật, bữa thì được giao công việc nguy hiểm và đòi hỏi nghiệp vụ hơn là đi trinh sát phát hiện nơi ém quân của địch để báo cho du kích và các đơn vị bộ đội biết đề phòng và đánh địch.

Công việc cách mạng đến với Nguyễn Thị Chiên cứ ngày này qua ngày khác. Lúc này, Kiến Xương bị thực dân Pháp liệt vào "điểm nóng", cần phải tiêu diệt. Ngoài in rải truyền đơn, thành lập và mở rộng hoạt động du kích, bà còn cùng anh em quấy nhiễu và phá hủy các đồn bốt của địch. Thời gian đó, các đại đoàn chủ lực của ta còn thiếu vũ khí nên vũ khí của du kích cũng chủ yếu là vũ khí thô sơ, tự tạo là chính. Bà vận động anh chị em ngoài việc cướp súng, lấy súng của địch cho bộ đội chủ lực còn tự trang bị vũ khí cho mình. Ngoài hoạt động quấy nhiễu địch, bà còn cùng chị em du kích trong xã sang các tỉnh, huyện lân cận để tăng cường hoạt động quấy nhiễu. Bà không thể quên được những lần chặt chuối làm phao kẹp vào nách bơi vượt sông Hồng sang Nam Định quấy nhiễu đồn bốt địch. Đi an toàn, về an toàn trong những đợt quấy nhiễu địch đã làm tăng thêm bản lĩnh và nối dài chiến công của nữ du kích Nguyễn Thị Chiên.

Trong thời gian hoạt động du kích, ngoài những lần cải trang, lọt qua sự kiểm soát nghiêm ngặt của địch để đưa công văn, thư từ, đưa cán bộ ra vào an toàn, bà nhớ nhất là lần phối hợp với Đại đội 44, Tiểu đoàn 680, Đại đoàn 320 đánh lính Âu Phi trên đường 39. Chính ở trận này, dù chỉ tay không nhưng bà đã bắt được tên quan hai Pháp. Sau hai ngày lùng sục, tiểu đoàn lính Âu Phi của địch hầu như đã mệt mỏi. Để thể hiện ý chí của mình trước những "yếu kém" của Đại đội 44 quân cách mạng, tên quan hai Pháp đã quyết định "dã ngoại" chiến trường với hai tên lính cận vệ. Phát hiện được sự thiếu cẩn trọng này, bà đã bám theo. Địch có ba tên mà bà chỉ có một, một suy tính nhanh chóng đến. Từ bụi chuối bên bờ mương, bà dõng dạc hô như đang chỉ huy với một đội hình lớn mạnh trong tay. Nghe lời hô bất thần, hai tên cận vệ đã bỏ tên quan hai Pháp chạy ra đường 39 còn bà thừa thế nhẩy vào giật ngay khẩu súng tiểu liên trong tay tên quan hai chĩa vào hắn bắt hàng rồi dẫn về giao nộp cho Đại đội 44. Tên quan hai Pháp bị bắt, cả tiểu đoàn Âu Phi rơi vào cảnh hỗn độn. Đại đội 44 được giữ bí mật đến phút chót đã quyết định tấn công. Trận này ta thắng lớn. Ngoài tên quan hai Pháp bị bắt, tiểu đoàn lính Âu Phi cũng bị xóa sổ còn cái tên "Người phụ nữ tay không bắt giặc" cũng theo bà từ đó.

Tháng 4/1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà bị địch bắt, giam cầm hơn ba tháng trời. Giặc hết dụ dỗ đến tra tấn dã man song người nữ du kích gan dạ vẫn cắn răng chịu đau, kiên trung, bất khuất không hề khai báo, đầu hàng. Những ngày ở lao tù này, bà nhớ nhất là những lần bị địch buộc tay chân vào một cây tre rồi đem vứt xuống sông, chờ bà sắp chết chúng lại vớt lên nhưng vẫn không moi được thông tin. Địch lại giả vờ đem bà đi bắn. Băng đen bịt mắt, tay chân buộc như tử tù, giặc nổ súng. Bà vẫn không sợ. Không khai thác được thông tin gì và cũng không có chứng cứ buộc tội, cuối cùng địch phải thả bà ra. Sức mạnh nào khiến một cô gái mới mười chín, đôi mươi lại có thể chịu đựng được những đòn tra tấn dã man của địch? Ngọn lửa nào đã nuôi dưỡng trái tim gan dạ sắt thép? Nguyễn Thị Chiên đã vượt qua tất cả những thủ đoạn tra tấn tàn ác của giặc là nhờ trong tim bà luôn có hình ảnh của Bác Hồ. Nhiều năm sau, bà tâm sự: "Khi bị địch bắt tù đày, nghĩ đến Bác Hồ, tôi một lòng một dạ không khai. Tôi đã tự nghĩ trong đầu như thế này: Nếu địch bắn và mình nắm chắc cái chết thì sẽ hô: Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm! Nhưng chúng bắn chỉ thiên sau khi hất tôi xuống sông. Mưu mô của giặc thất bại chính vì nhờ trong tim tôi luôn có Bác. Tôi cương quyết không khai và hy vọng sau này nếu kháng chiến thành công nhất định tôi sẽ được gặp Bác Hồ. Cuối cùng tôi đã chiến thắng".

Ra tù, Nguyễn Thị Chiên tiếp tục hoạt động du kích. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà bắn bị thương một tên địch, bắt sống sáu tên, thu bốn súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, bà chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống bốn tên. Với thành tích trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1952, tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở năm thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương đánh địch, chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch, Nguyễn Thị Chiên đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, hai Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Năm 1952, bà vinh dự là đại biểu nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Việt Bắc ngày 1/5/1952. Với những đóng góp của mình, Nguyễn Thị Chiên đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm ấy bà mới 22 tuổi. Trở thành anh hùng đã là một kỳ tích, một niềm vinh dự và tự hào lớn lao đối với một cô gái. Vinh dự, tự hào hơn, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm ấy, Nguyễn Thị Chiên đã được gặp Bác Hồ, được thỏa lòng mong ước bởi trong những ngày bị địch cầm tù, tra tấn dã man, hình ảnh Bác là động lực giúp bà vượt qua hết thảy mọi đau đớn, kiên trung, bất khuất trước đòn roi của chúng. Cũng như bao người một lần trong đời được gặp Bác, những mong gặp Bác để nói với Bác bao tình cảm, nỗi niềm kính yêu Bác trong lòng, ấy vậy mà khi gặp Bác rồi Nguyễn Thị Chiên lại không nói được gì, chỉ kịp thốt lên: Bác! Bác! rồi khóc. Trước những đòn tra tấn của địch, Nguyễn Thị Chiên không hề khóc, vậy mà sao thấy Bác là chị khóc. Mãi một lúc sau bà mới trấn tĩnh lại, không khóc để ghi nhớ những lời Bác dặn để khi trở về sẽ báo cáo với anh em trong đơn vị. Những lời căn dặn của Bác là động lực lớn khích lệ các đồng chí quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ, chiến đấu giành thắng lợi.

Cùng năm đó, một vinh dự nữa cũng đến với bà khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng khẩu súng ngắn của Người. Không những thế, bà còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài ca ngợi, tuyên truyền tấm gương gan dạ, dũng cảm và thành tích trong chiến đấu trên báo và trong nhiều hội nghị trong kháng chiến chống Pháp. Với bút danh C.B trên Báo Nhân Dân, Bác Hồ đã viết bài: "Nguyễn Thị Chiên". Bài báo viết: "Nữ trung đội trưởng du kích Nguyễn Thị Chiên là một cố nông, 22 tuổi, vào đội du kích từ 1946. Vùng chị Chiên thường bị giặc càn quét. Cơ sở tan rã. Nhân dân hoang mang. Chị cứ bám sát lấy dân, lập lại cơ sở chính quyền và đoàn thể, tổ chức một trung đội nữ du kích chống càn quét, bảo vệ làng. Bị bắt, bị tra tấn suốt 3 tháng, bị đưa ra bắn dọa 3 lần, chị vẫn bình tĩnh, không khai nửa lời. Vừa thoát được về, tuy mình đầy vết thương, chân đau không đi được, chị cũng hoạt động lại ngay. Trong đợt thi đua từ 19/5 đến 19/12/1951, chị đã thắng 10 trận, tự tay tước được 15 súng và bắt sống 20 tên giặc (1 tên quan hai Pháp). Trong các trận, chị không hề bỏ sót một người thương binh nào. Trong vụ thuế nông nghiệp, chị đã thức 3 đêm liền, tuyên truyền giải thích từng nhà, từng người. Nhiều người lạc hậu, thấy chị thành khẩn, đều cảm động và trở nên hăng hái. Khi bắt được tên đồn trưởng (nó đã giết người anh của chị), chị giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ, rồi thả nó. Vì vậy, nó đã gọi nhiều ngụy binh khác ra hàng. Chị Chiên, vì yêu nước, căm giặc, trung thành với đoàn thể, kiên quyết bám sát dân, luôn luôn thương yêu đồng đội, nắm vững và ra sức thi hành chính sách nên đã lập được công to, rất xứng đáng là Anh hùng Quân đội". (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr 505).

Trong "Bài nói tại buổi bế mạc Lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức", Hồ Chủ tịch nhắc nhở: "Chín năm trước đây, nhân dân ta gồm cả trí thức ta, bị Tây khinh rẻ và gọi là "giống bẩn thỉu". Ngày nay, ta có những anh hùng như Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Quốc Trị và đang nảy nở hàng trăm chiến sĩ và anh hùng trong phong trào thi đua yêu nước". (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia 2000, tr 145-149). Khi viết bài "Người cán bộ cách mạng", vẫn với bút danh C.B, Hồ Chủ tịch lại nhắc đến: "Nữ anh hùng du kích Nguyễn Thị Chiên, mấy lần bị giặc bắt và tra tấn sống đi chết lại nhưng không hề lộ bí mật; mỗi lần thoát khỏi tay địch, hoạt động càng thêm hăng". (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia 2000, tr 480-482).

Sau Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên được cử tham gia đoàn đại biểu đi dự Đại hội Hòa bình châu Á - Thái Bình Dương tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại hội Hòa bình thế giới tại Viên (Áo) cùng với các nhà trí thức Việt Nam như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, cư sĩ Lê Đình Thám, nhà giáo Đặng Chấn Liêu, nhạc sĩ Đỗ Xuân Oanh, Nguyễn Xuân Trâm, Anh hùng Ngô Gia Khảm… do đồng chí Xuân Thủy làm trưởng đoàn. Năm 1953, Nguyễn Thị Chiên chính thức gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam. Với kinh nghiệm tổ chức và triển khai lực lượng du kích địa phương, bà đã được điều về Hà Nội với nhiệm vụ phụ trách và quản lý dân quân bốn huyện ngoại thành. Trong công tác mới, bà đã gặp ông Vũ Anh Tài, cán bộ Sư đoàn 320. Bà và ông nên duyên, sinh được một người con gái, đây cũng là người con gái duy nhất của họ. Đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông đi biền biệt, bà ở lại vừa công tác vừa nuôi con.

Sau nhiều năm công tác trong quân đội, năm 1984 bà Nguyễn Thị Chiên về hưu với quân hàm trung tá và thương tật hạng 4/4. "Người phụ nữ tay không bắt giặc" năm nào sống hạnh phúc bên con cháu trong căn nhà nhỏ tự cất nằm ngoài đê sông Hồng, sát chân cầu Long Biên.

  • Từ khóa