Thứ 5, 07/08/2025, 06:23[GMT+7]

Cây thuốc và vị thuốc quanh ta RÂM RAN CHÈ XANH

Thứ 7, 28/08/2010 | 14:27:26
2,918 lượt xem
Chè đã được sử dụng hơn 2000 năm trước Công nguyên. Do có cafein và theophyllin, chè là một chất kích thích não, tim và hô hấp. Nó tăng cường sức làm việc trí óc và của cơ, làm tăng hô hấp, tăng cường và điều hoà nhịp đập của tim. Nó cũng lợi tiểu, làm dễ tiêu hoá.

Người dân quê Việt Nam từ miền xuôi cho tới miền núi cao, đâu đâu cũng có bát nước chè xanh làm bầu bạn và nước chè đã trở thành thứ nước uống thân thuộc thẫm đẫm nét nhân văn cao cả với người dân quê lam lũ. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, bát nước chè xanh của những người mẹ, người chị đã có sức động viên mạnh mẽ tới tinh thần vượt Trường Sơn đi chiến đấu giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của bộ đội ta.

Cây Chè thuộc loại thân mộc, cây nhỡ cao từ 1m đến 6m. Lá mọc so le, hình trái xoan, dài 4-10cm, rộng 2-2,5cm, nhọn gốc, nhọn tù có mũi ở đỉnh, phiến lá lúc non có lông mịn, khi già thì dày, bóng, mép khía răng cưa rất đều. Hoa to, với 5-6 cánh hoa màu trắng, mọc riêng lẻ ở nách lá, có mùi thơm, nhiều nhị. Quả nang thường có 3 van, chứa mỗi ở một hạt gần tròn, đôi khi nhăn nheo.

Hoa thường nở vào tháng 9-10; đậu quả tháng 11- 3 năm sau. Người dân thường hái lá dùng để nấu nước uống rất mát, hoặc phơi sấy khô dùng lâu dài. Chè có tên khoa học là: Camellia sinensis (L) O.Ktze Thea sinensis L. thuộc họ Chè Theaceae. Ban đầu, chè có nguồn gốc ở Bắc Ấn Độ và Nam Trung Quốc, được truyền sang Mianma, Thái Lan, Việt Nam.

Chè được trồng khắp nơi ở nước ta, tập trung nhiều ở Vĩnh Phú, Hà Giang, Bắc Thái, Quảng Nam - Đà Nẵng cho tới Đắc Lắc, Lâm Đồng. Ở các vùng quê nông thôn, chè được trồng làm giậu và thu hái lá làm nước uống giải khát chủ yếu của người nông dân. Cây chè ưa khí hậu ẩm, đất chua và cần được che bóng ở một mức độ nhất độ nhất định để đảm bảo hương thơm.

Thông thường người ta bẻ cả cành lá nấu nước uống gọi là chè xanh, hoặc hái búp và lá non sao, vò rồi sao để làm chè hương pha nước uống gọi là trà. Lại còn có cách để cho lên men mới phơi sấy khô làm chè mạn hay chế thành chè đen. Thành phần hoá học đã được chứng minh: Trong lá chè có tinh dầu, các dẫn xuất polyphenolic (flavonoid, catechol, tanin) các alcaloid cafein, theophyllin, theobromin, xanthin. Còn có các vitamin C, B1, B2, B3 và các men. Tính vị, tác dụng: Chè có vị đắng chát, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải khát, tiêu cơm, lợi tiểu, định thần, làm cho đầu não được thư thái, da thịt mát mẻ, khỏi chóng mặt xây xẩm, bớt mụn nhọt, và cầm tả lỵ.

Chè đã được sử dụng hơn 2000 năm trước Công nguyên. Do có cafein và theophyllin, chè là một chất kích thích não, tim và hô hấp. Nó tăng cường sức làm việc trí óc và của cơ, làm tăng hô hấp, tăng cường và điều hoà nhịp đập của tim. Nó cũng lợi tiểu, làm dễ tiêu hoá. Sự có mặt của các dẫn xuất polyphenolic làm cho tác dụng của chè đỡ hại hơn hơn và kéo dài hơn là cafein. Các flavonol và polyphenol làm cho chè có tính chất của vitamin P.

Tuy vậy, nếu sử dụng kéo dài với liều cao, chè có thể gây nhiễm độc mạn tính, biểu hiện bởi sự mất ngủ, sự gầy yếu, mất cảm giác ngon miệng, có rối loạn thần kinh. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường được dùng trong các trường hợp: Tâm thần mệt mỏi, ngủ nhiều; đau đầu, mắt mờ; sốt khát nước; tiểu tiện không lợi; ngộ độc rượu. Dùng ngoài, nấu nước rửa vết bỏng hay lở loét thì chóng ra da và lên da non. Người miền quê tối đến xum vầy quanh ấm nước chè xanh, cùng nhau "ôn cố - tri tân", một sinh hoạt văn hóa sâu đậm níu kéo mọi người sát lại gần nhau. Nước chè không những chỉ đơn thuần là thứ nước giải khát mà còn là một vị thuốc ngấm dần theo năm tháng chữa khỏi những căn bệnh nhiễm phải cũng như những căn bệnh ảo giác do chính con người gây ra.

Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

Đơn thuốc: Chữa phù thũng, dùng Chè tươi 300g nấu nước uống, mỗi ngày 2-3 lít; uống luôn 3-4 ngày sẽ kiến hiệu. Chữa ỉa chảy hay đi lỵ, dùng búp chè, búp ổi, mỗi thứ một nắm, sao vàng sắc uống, hoặc nhai một nắm trà hương khô mốc. Chữa bị bỏng, nấu nước chè đặc giội vào vết bỏng và rửa sạch, rồi lấy lòng trắng trứng gà phết vào sẽ chóng lành.

  • Từ khóa