Thứ 7, 05/07/2025, 14:40[GMT+7]

MÃ ĐỀ - VỊ THUỐC LỢI NIỆU

Thứ 5, 02/09/2010 | 06:14:19
8,254 lượt xem
Mã đề, thường gọi là "Xa tiền thảo" và hạt của cây thu hái được thường gọi là "Xa tiền tử", tên thường gọi là: Bông mã đề. Tên gọi khác: Bông lá đề, Cỏ mã đề. Tên tiếng Anh: Plantain; tên la tinh: Plantago major L. thuộc họ Mã đề Plantaginaceae.

Cây Bông Mã đề (Xa tiền thảo) Ảnh: Quang Viện

Mã đề là cây thân thảo, sống hàng năm, cao độ 10-15cm. Lá có cuống dài, hình trứng (ảnh) dài 5-12cm, rộng 3,5 -8cm, đầu tù, hơi có mũi nhọn. Mã đề rất dễ nhận ra bởi phiến lá hình thìa, đôi khi hình trứng, có gân hình cung dọc theo sống lá và đồng quy ở ngọn và gốc lá.  

Mép lá uốn lượn, nguyên hoặc hơi có răng cưa, không đều. Hoa nhỏ, lưỡng tính, mọc thành bông, có cán dài, xuất phát từ kẽ lá. Hoa có bốn đài, xếp chéo, hơi đính vào nhau ở phía gốc. Tràng hoa mỏng, khô xác, có bốn thùy hình tam giác nhọn, xếp xen kẽ với lá đài, hoa có bốn nhị, chỉ nhị mảnh.

Bầu hình cầu, có 2 ô. Quả nang, hình chóp thuôn, dài 3,5- 4mm, mở bằng một nắp nứt ngang trên các lá đài. Hạt rất nhỏ, hình bầu dục, hơi dẹt, chỉ dài độ 1mm, màu nâu hoặc tím đen, bóng. Trên mặt hạt có chấm nhỏ màu trắng. Thành phần hoá học cây có chứa một glucosid. Lá có chất nhầy, chất đắng, caroten, sinh tố C, K, T, acid citric.

Trong hạt có nhiều chất nhầy, acid plantenolic, adenin và cholin. Theo Đông y, hạt củ cây Mã đề có vị ngọt, tính hàn, không có độc, tính vị quy kinh can, thận, bàng quang, phế. Có tác dụng lợi niệu thanh nhiệt, chữa các chứng tả, lỵ, tiêu viêm, lợi tiểu, lợi phế, làm long đờm. Trong dân gian, người ta đã biết dùng Mã đề để chữa các chứng bệnh như: Sỏi niệu và nhiễm trùng đường niệu, viêm thận, phù thũng, cảm lạnh ho, viêm khí quản, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc cấp, viêm gan, đau mắt đỏ có màng.

Cách dùng, dùng toàn cây với liều lượng khoảng 15-30g. Nếu dùng hạt có thể dùng từ 5-10g dạng thuốc sắc. Cũng có thể dùng ngoài bằng cách giã nát cây tươi đắp lên chỗ mụn nhọt. Theo kinh nghiệm của các lương y, thuốc có dùng Mã đề công năng làm mạnh phần âm, ích tinh khí, mát gan, sáng mắt. "Xa tiền tử" nghĩa là hạt của cây Mã đề, là vị thuốc khá thông dụng được sử dụng phổ biến trong dân gian. Xa tiền tử" thu hoạch vào khoảng tháng 7 - 8 khi quả chín già, đem nhổ cây về phơi khô và thu lấy hạt.

Hạt Mã đề chủ trị các chứng thấp nhiệt gây đái buốt, đái rắt, thủy thũng, phù nề, vàng da. Có thể dùng chữa ho, thông đờm trong viêm phế quản, các bệnh tả lỵ, bệnh đau mắt đỏ, nhức mắt, nước mắt chảy nhiều. Đối với các chứng bệnh thông thường về tiết niệu, bằng kinh nghiệm dân gian đã được kiểm chứng với các phương thuốc khá hiệu nghiệm, cách dùng như sau: "Lấy lá cây Mã đề sắc hoặc nấu cao uống làm thuốc thông tiểu, chữa ho lâu ngày, viêm khí quản, tả lỵ, mắt đỏ đau.

Ngoài ra, Mã đề tươi dùng sắc lấy nước uống chữa huyết áp cao. Lá tươi sắc uống còn có thể chữa lỵ cấp tính và mạn tính hoặc giã nát đắp mụn nhọt, làm mụn nhọt chóng vỡ mủ và mau lành. Kinh nghiệm dân gian thường dùng Mã đề chữa chứng thấp nhiệt tiểu tiện khó, đái buốt, đái rắt, nước tiểu ít, màu đỏ hoặc đục, dùng hạt Mã đề tán bột, ngày uống 8 - 10g chia 2 lần.

Trường hợp bệnh nặng hơn phải thanh nhiệt lợi thấp dùng thêm: Hoàng bá 12g, Hoàng liên 8g, Bồ công anh 12g, Tỳ giải 12g, Mộc thông 10g, hạt mã đề 12g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc trường hợp thấp nhiệt nặng, có thể không đái được, bụng đầy trướng, miệng khô, họng ráo, rêu lưỡi vàng cáu, mạch hoạt sác, dùng bài "Bát chính tán" gồm: Hạt Mã đề; cù mạch; hoạt thạch; chi tử; mộc thông; biển súc; cam thảo; đại hoàng.

Lượng bằng nhau, tán thành bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 – 15g chiêu với nước đăng tâm thảo. Nếu thấp nhiệt thịnh, ứ nghẽn nhiều phải thanh nhiệt, giải độc, hóa ứ, trừ thấp dùng đại hoàng 6g, bạch truật 6g, mẫu lệ 10g, xa tiền tử 16g, hồng hoa 6g, khiếm thực 10g, ngư tinh thảo 10g. Sắc uống ngày một thang. Trường hợp tiểu tiện khó khăn, mặt phù, chân thũng, bụng trướng, kém ăn tiểu tiện vàng, rêu lưỡi nhớt, là khí hóa mất chức năng, dương uất, thủy ứ phải hóa khí kiện tỳ, lợi thấp dùng xa tiền tử 12g, phục linh 12g, trư linh 12g, trạch tả 12g, bạch truật 12g, bạch mao căn 12g, trần bì 12g, trần bì 12g, quế chi 6g, tỳ giải 15g.

Trong trường hợp tiểu tiện khó khăn do tiền liệt tuyến phì đại, cuối bãi nhỏ giọt không hết, thiên về ứ kết phải hành khí, phá ứ, điều dương, thông lợi dùng xa tiền tử 24g, tạo giác thích 15g, dâm dương hoắc 15g, xuyên sơn giáp 15g, chỉ thực 15g, tiên mao 15g, hồng hoa 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 – 3 lần. Nếu mắc chứng phù thũng, tiểu tiện không lợi dùng hạt mã đề 15g, phục linh bì 9g, trạch tả 9g. Sắc uống ngày một thang.

 Nặng hơn trong trường hợp phù thũng toàn thân tiểu tiện không lợi do phong hàn nhiệt thấp, độc bị ứ dẫn đến công năng của 3 tạng tỳ, phế, thận mất điều hòa lại kiêm khái thấu, thở gấp phải tán hàn, tuyên phế, lợi thủy, tiêu thũng dùng xa tiền tử 12g, ma hoàng 6g, tô diệp 9g, trần bì 9g, trư linh 9g, bán hạ 6g, hạnh nhân 9g, phục linh 9g, phòng phong 9g, đan bì 9g.

Nếu phù thũng tiểu tiện ít, vàng, sẻn, khó khăn dùng xa tiền tử 12g, mộc thông 5g, phục linh 12g, mẫu đơn bì 12g, đại phúc bì 9g, trần bì 9g, phòng phong 9g, ma hoàng 6g, tô diệp 9g, phòng kỷ 9g, trích tang bạch bì 9g. Sắc uống ngày một thang. Bệnh nhân bị phù thũng lúc phát lúc không, xu hướng không nặng, lưng gối yếu ớt, miệng khô, họng ráo, sốt nhẹ, mỏi mệt kèm theo tâm phiền, tai ù, chóng mặt, lưỡi đỏ, mồ hôi trộm phải tư can dưỡng thận, đạm thấm lợi thủy dùng xa tiền tử 25g, trạch tả 20g, bạch phục linh 25g, địa phu tử 25g, mẫu đơn bì 20g, sơn thù du 15g, tang thầm 25g, câu kỷ tử 20g, nữ trinh tử 20g, hoài sơn 20g, can địa hoàng 25g. Sắc uống ngày một thang".

Mã đề có thể mọc hoang và có thể được trồng nhằm thu hái dược liệu quanh năm. Trong điều kiện ô nhiễm môi trường, đặc biệt là dư độc tố hóa học trong các loại thức ăn, nước uống và nhiễm khuẩn cao do điều kiện sống không bảo đảm, việc dùng Mã đề làm vị thuốc chữa trị các chứng bệnh về đường tiết niệu là rất khả quan.

Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

  • Từ khóa