Thứ 3, 08/07/2025, 18:37[GMT+7]

"ĐỆ NHẤT" TOA CĂN

Thứ 7, 07/08/2010 | 15:13:29
5,100 lượt xem
Trong dân gian có câu: "Dây mơ, rễ má" hàm ý chỉ sự liên quan huyết thống gần xa của họ tộc nội, ngoại hoặc thân thích. Còn trong cuộc sống thực tế, rễ má chính là cây rau má, một loài rau dại ăn được, có thể cứu đói cho con người.

Trong y học dân gian, vào khoảng năm 1950 cụ Võ văn Hưng, một lương y giàu kinh nghiêm ở miền đông nam bộ đã sáng chế ra toa căn bản, trong đó rau má được xếp hạng "đệ nhất toa". Đặc điểm của toa căn bản là không độc, dễ sử dụng, có tác dụng kích thích tiêu hoá, nhuận gan, nhuận trường, lợi tiểu, giải độc và tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Tuỳ theo tình trạng của người bệnh và điều kiện của địa phương mà linh động gia giảm vị thuốc hoặc liều thuốc.
Rau má mọc hoang ở mọi nơi, là loại cây thảo bò trên mặt đất nhất là chỗ mát và ẩm. Dân gian thương dùng rau má làm rau, luộc chín hoặc ăn sống. Nhiều người còn biết chế biến rau má thành xirô để uống giải khát. Rau má là một vị thuốc mát, không độc, có vị ngọt, hơi đắng, tính bình và không có tác dụng phụ khi dùng lâu dài. Rau má chữa bệnh rôm sẩy, mẩn ngứa, bệnh tiêu chảy, kiết lỵ, chữa đau bụng hành kinh của phụ nữ, ngoài ra còn dùng để chữa bệnh gan và giãn tĩnh mạch chi dưới. Kinh nghiệm dân gian thường dùng rau má để giải độc, đặc biệt ngộ độc lá ngón, dùng cả cây rau má tươi rửa sạch, giã nát rồi pha với nước ấm, cho thêm một ít đường cho dễ uống. Tích tuyết thảo là tên gọi khác của rau má. Do đặc điểm có lá trông giống như những đồng tiền tròn được xếp nối tiếp nhau nên còn gọi là "Liên tiền thảo". Tên khoa học là Centella asiatica (L.) thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Cây thân nhẵn, mọc lan trên mặt đất, có rể ở các mấu. Lá có cuống dài mọc ra từ gốc hoặc từ các mấu. Lá hơi tròn, có mép khía tai bèo. Phiến lá có gân dạng lưới hình chân vịt. Hoa mọc ở kẻ lá. Cánh hoa màu đỏ hoặc tía. Thành phần hóa học của rau má đã được các nhà khoa học được lý nghiên cứu và công bố bao gồm những chất sau: beta caroten, sterols, saponins, alkaloids, flavonols, saccharids, calcium, iron, magnesium, manganese, phosphorus, potassium, zinc, các loại vitamins B1, B2, B3, C và K. Theo y học cổ truyền, rau má có vị đắng, hơi ngọt, tính bình, vào Can, Tỳ Vị có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má thường dùng để làm thuốc bổ dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn nhọt, rôm sẩy. Rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponins  bao gồm asiaticoside, madecassoside, madecassic acid và asiatic acid. Hoạt chất asiaticoside đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh lao. Theo bệnh học, vi khuẩn thường bao phủ bên ngoài bởi một màng ngoài giống như sáp khiến cho hệ kháng nhiểm của cơ thể không thể tiếp cận. Chất asiaticoside trong dịch chiết rau má có thể làm tan lớp màng bao để hệ thống miển dịch của cơ thể tiêu diệt chúng. Đối với da, nhiều công trình nghiên cứu và kết quả lâm sàng cho thấy dịch chiết rau má có khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô liên kết giúp vết thương chóng lành và mau lên da non. Hiên nay khoa học tiên tiến đã đưa vào trong thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mỡ thành phần  rau má để điều trị tất cả các chứng bệnh về da như vết bỏng, vết thương do chấn thương, do giải phẩu, cấy ghép da, những vết lở lâu lành , vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy nến… trong đã được sử dụng rất đa dạng. Đối với tuần hoàn huyết, những hoạt chất của rau má có tác dụng cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao mạch, bảo vệ lớp áo trong của thành mạch và làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu. Do tính năng dược dụng nên rau má được tin dùng trong điều trị các chứng tăng áp lực tĩnh mạch ở chi dưới. Ngoài ra, dân gian còn dùng nước ép rau má để làm nước giải khát, thanh nhiệt, giải độc và cũng là một cách sử dụng rau má đơn giản và thông dụng nhất. Nước ép rau má tươi có đầy đủ các hoạt chất và tác dụng như phần trên đã đề cập. Mỗi người, mỗi ngày có thể dùng từ 30 đến 40g rau má tươi. Toa căn bản vẫn thường được dùng gồm: Rau má 8g, rễ cỏ tranh 8g, lá muồng trâu 4g, cỏ mần trầu 8g, cỏ mực 8g, cam thảo nam 8g, ké đầu ngựa 8g, củ sả 4g, gừng tươi 4g, vỏ quít 4g. Đổ ba chén nước sắc còn non một chén, uống lúc thuốc còn ấm. Toa thuốc "Hoàn ích khí, dưỡng âm, trợ cơ, cứu đói" có thành phần như sau: Rau má, lá dâu tằm, vừng đen, bột củ mài, mỗi vị ngang nhau, tán bột làm hoàn, mỗi hoàn khoảng 5g. Mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 1 hoặc 2 hoàn. Có thể làm thuốc bổ dưỡng cho trẻ em, người già hoặc ngưòi mới ốm dậy hoặc dùng làm lương khô mang theo khi đi xa, phòng lúc cơ nhỡ.
Một số bài thuốc giản đơn từ rau má có tác dụng thanh nhiệt giải độc như: thoái nhiệt đơn. Công dụng giảm nhiệt, hạ sốt, trừ khát, trấn kinh, gồm: rau má 15%, hoạt thạch 30%, sắn dây 20%, sài hồ 15%, thạch cao 10%, cam thảo 10%. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g. Thuốc hạ huyết áp gồm: Rễ nhàu 16g, rễ kiến cò 12g, lá tre l2g, rễ tranh 12g, rễ cỏ xước 12g, rau má 16g, lá dâu 12g. Sắc uống hoặc đóng viên làm trà uống thay nước hàng ngày.Chữa trị sốt xuất huyết: Rau má 20g, cỏ mực 16g, rau sam 16g, đậu đen 16g. Sắc uống.
Những năm chiến tranh ác liệt, rau má đã đi theo bước chân hành quân của anh bộ đội cụ Hồ, vượt Trường Sơn, băng qua lửa đạn vào nam chiến đấu, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Ngày nay, trong cuộc sống "dư thừa" chất bổ, cong người đang lạm dụng quá nhiều hóa chất, có nhiều chất dư độc tố gây hại cho gan, thận, da, thì rau má lại là một phương thuốc đặc trị. Nhiều nơi đã biết trồng và thu hái rau má dưới dạng công nghiệp để chế biến thành "sinh tố rau má" vừa là vị thuốc dân gian, vừa thanh nhiệt giải độc hữu hiệu, thật không hổ thẹn là "đệ nhất" toa căn.

Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

  • Từ khóa