Thứ 6, 08/08/2025, 05:08[GMT+7]

Tiền Hải Làm tốt công tác quản lý Nhà nước về khoa học-công nghệ

Thứ 3, 13/09/2011 | 15:41:17
3,091 lượt xem
Hiếm có địa phương nào như Tiền Hải, một huyện ven biển không những giàu tiềm năng khí đốt phục vụ phát triển công nghiệp mà đối với nông nghiệp cũng luôn là địa phương số một tiên phong trong hoạt động ứng dụng khoa học - công nghệ vào phát triển sản xuất.

Phần lớn sản phẩm gốm sứ, thủy tinh... được sản xuất tại Tiền Hải ngoài ứng dụng khoa học - công nghệ đều dùng khí đốt thiên nhiên, nên giá thành hạ và an toàn cho môi trường.

Quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ (KH&CN) cấp huyện có vị trí rất quan trọng trong việc đưa tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống nói chung, đối với sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới nói riêng. Thực hiện Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT/BKHCN-BNV ngày 18/6/2008 giữa Bộ KH&CN và Bộ Nội vụ, UBND huyện Tiền Hải đã quyết định sáp nhập chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về KH&CN vào Phòng Công thương và bố trí một phó phòng phụ trách, một cán bộ chuyên theo dõi lĩnh vực hoạt động KH&CN, đồng thời xây dựng đội ngũ KH&CN đủ mạnh để giúp huyện đưa tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống.

Trong những năm qua, UBND huyện Tiền Hải đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền phổ biến pháp luật về KH&CN, các tiến bộ KH&CN để doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và nhân dân trong huyện lựa chọn, ứng dụng đẩy mạnh phong trào sáng tạo, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến nghiệp vụ công tác, quản lý sở hữu trí tuệ, bức xạ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm trên địa bàn huyện. Do có sự đổi mới trong quản lý KH&CN theo tinh thần Thông tư 05/2008/TTLT/BKHCN-BNV, hoạt động KH&CN huyện Tiền Hải đã có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng kịp thời yêu cầu bức xúc của thực tiễn sản xuất và đời sống trong huyện.

Về lĩnh vực nông nghiệp: Đã tuyển chọn được nhiều giống lúa mới ngắn ngày cho năng suất cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt đưa vào sản xuất đại trà, đặc biệt là các giống lúa lai: tạp giao, bắc ưu, bồi tạp sơn thanh... đưa năng suất lúa của huyện đạt gần 13 tấn/ha cả năm.

Cùng với lúa, huyện cũng đã đưa giống mới thay thế các giống cây trồng khác như: ngô lai, dưa hấu lai, khoai tây hạt, ngô bao tử, ngô ngọt góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa nông nghiệp sang sản xuất hàng  hóa, đạt giá trị sản lượng cây trồng trên 50 triệu đồng một héc ta cả năm.

Trong chăn nuôi huyện đã thay thế các giống gia cầm cũ như gà ri, ngan đen, vịt cỏ bằng các giống gà Tam hoàng, lương phượng Hybro, ngan Pháp, vịt khalicamben siêu trứng, vịt super siêu thịt và du nhập giống đà điểu về nuôi. Đã đưa các giống lợn ngoại hướng nạc vào sản xuất đại trà như lợn landrat, ioocsia,... , lai tạo giống bò vào địa phương từng bước được sind hóa tiến lên zebu hóa theo hướng cho thịt và sữa. Đến nay 100% đàn bò đã được lai tạo phát huy ưu thế lai qua công nghệ tinh đông viên.

Các giống thủy sản nước ngọt như trê lai, rô phi đơn tính, cá chép lai 3 máu, tôm càng xanh đã được bổ sung vào cơ cấu giống nuôi làm tăng hiệu quả kinh tế lên rất nhiều lần. Với 2000 ha đầm, hồ ven sông, ven biển huyện đã du nhập tuyển chọn các giống thủy sản nước mặn, nước lợ có hiệu quả kinh tế cao như cá vược, tôm sú, cá bớp, ngao vạng, rau câu,...

Trong  lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản: Nhờ áp dụng tiến bộ KH&CN, nhiều mặt hàng công nghiệp trên địa bàn huyện đã vươn lên cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới như: Công ty Gạch ốp lát Ceramic đã áp dụng tiến bộ KH&CN sản xuất liên hoàn, sử dụng vật liệu trong nước thay thế vật liệu nhập ngoại, đổi mới mẫu mã sản phẩm đã đưa chất lượng sản phẩm lên rất cao, được nhận giải thưởng Vifotec trong dịp tham gia hội chợ quốc tế. Công ty Pha lê Việt Tiệp đã đầu tư gần 1 triệu USD để đổi mới công nghệ sản suất Pha lê- thủy tinh cao cấp, trở thành đơn vị có công nghệ sản xuất thủy tinh hàng đầu Việt Namon>...

Đối với xây dựng công trình dân dụng đã sử dụng các máy đầm trộn giảm được rất nhiều sức lao động nặng nhọc và tăng giá trị bền vững của công trình, sử dụng các loại vật liệu mới làm cho công trình bền đẹp và hiện đại hơn. Trong xây dựng cầu đường đã ứng dụng công nghệ đầm bê tông cốt thép dự ứng lực kéo trước.

Các ngành nghề thủ công cũng như sản xuất đồ mộc, xay xát, đan lát... đã vươn lên sử dụng cơ khí nhỏ làm tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đồng thời giảm nhẹ cường độ lao động cho người trực tiếp sản xuất.

Lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn: huyện nghiên cứu biên soạn được nhiều tài liệu quạn trọng như: Lịch sử đảng bộ huyện, lịch sử khai khẩn đất hoang, lịch sử 175 năm ngày thành lập huyện. Nhiều xã trong huyện đã nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ xã.

Về lĩnh vực quản lý, huyện đã nghiên cứu đổi mới trong quản lý KH&CN nông nghiệp bằng việc áp dụng mô hình kết hợp 5 nhà : nhà nông, nhà nước, nhà băng, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học trong đó nhà nước đóng vai trò trung gian kết hợp “4 nhà” để đưa tiến bộ KH&CN đến với các đối tượng sản xuất: nông dân, chủ trang trại, HTX dịch vụ nông nghiệp.

Hoạt động phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuấ: đã được phát động thành phong trào rộng lớn, có nơi như trung tâm y tế huyện đã coi việc phát huy sáng kiến là tiêu chuẩn đánh giá phong trào như thi đua hoàn thành nhiệm vụ của các phòng ban và từng cá nhân. Công ty gạch ốp lát do phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất đã làm lợi cho công ty trên 8 tỷ đồng và tiết kiệm 300.000 USD do không phải nhập khẩu vật tư nguyên liệu từ nước ngoài, góp phần làm giảm 35-40% giá thành sản phẩm, tăng năng suất 5-10%. Trong công ty có 3 người được tặng bằng khen lao động sáng tạo. 

Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, việc lồng ghép chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về KH&CN vào phòng Công thương còn nhiều bất cập và không còn phù hợp nữa. Hoạt động KH&CN mang tính tổng hợp, thâm nhập sâu vào tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng lại đặt vào phòng Công thương đang thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dich vụ, thậm chí lại không được đặt tên gọi là phòng Công nghiệp – Thương Mại – KH&CN nên vai trò quản lý nhà nước về KH&CN trong phòng Công thương là rất lu mờ. Việc bố trí hai cán bộ chuyên trách giúp huyện quản lý nhà nước về KH&CN là không tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn đặt ra trong Thông tư 05/2008/TTLT/BKHCN-BNV.

Chỉ với việc phối hợp với các phòng, ban, đơn vị chức năng đưa tiến bộ KH&CN đến với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội và người dân để họ lựa chọn, ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống cũng đã quá nặng nề rồi, trong khi đó việc kiểm tra định kỳ hàng năm về sở hữu trí tuệ, quản lý bức xạ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, quá trình thanh tra bao gồm nhiều bước: xem xét, lập biên bản, đình chỉ hoạt động, đề xuất cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm.

Mặt khác, phòng công thương tổ chức thực hiện nhiều đầu mối của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp cấp trên, trách nhiệm của phòng rất nặng nề, do vậy cán bộ chuyên trách lĩnh vực KH&CN chưa hẳn đã là “chuyên trách” về tài chính phục vụ cho quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực KH&CN một lĩnh vực rất lớn, đóng vai trò then chốt trong phát triển KT-XH như hiện nay.

Cấp huyện và cấp xã là địa bàn sát với doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, xã hội, sát với dân, hoạt động nghiên cứu KH&CN ở tầm vĩ mô nhưng ứng dụng tiến bộ KH&CN lại rất cần thiết đối với cấp huyện và cấp xã. Vì vậy việc tăng cường quản lý nhà nước về KH&CN trên địa bàn cấp huyện, cấp xã là tất yếu và khách quan. Nên chăng, cần sửa đổi Thông tư liên tịch 05/2008/TTLT/BKHCN-BNV theo hướng quy định thành lập phòng KH&CN là phòng chuyên môn của UBND cấp huyện để đảm trách quản lý nhà nước về KH&CN trên địa bàn cấp huyện. Mặt khác nên quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về KH&CN cho UBND cấp xã và phân công một ủy viên UBND cấp xã theo dõi hoạt động KH&CN trên địa bàn.

HÀ THỊ THANH HƯƠNG

(Sở KH&CN Thái Bình)

  • Từ khóa