Thứ 7, 10/08/2024, 02:18[GMT+7]

Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác thương binh, liệt sĩ

Thứ 6, 01/07/2016 | 19:44:26
3,520 lượt xem
(Chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 7/2016)

Bác Hồ viếng nghĩa trang liệt sỹ. Ảnh tư liệu

"Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đây cũng là một trong những nguồn gốc hình thành tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nói chung, tình cảm, tư tưởng của Người đối với thương binh, liệt sĩ nói riêng.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tất cả mọi người, đặc biệt là các cụ già, phụ nữ, thanh thiếu niên nhi đồng, các chiến sỹ, thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sĩ. Năm 1946, khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, giữa bộn bề công việc và khó khăn chồng chất nhưng Người vẫn không quên các thương binh, thân nhân gia đình liệt sĩ: "Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ,

cám ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con của tôi".

Năm 1947, trong khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị các ban, ngành, đoàn thể Trung ương đang họp ở Đại Từ, Thái Nguyên, lấy ngày 27/7/1947 làm "Ngày Thương binh toàn quốc" đầu tiên để bày tỏ tình cảm thắm thiết, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị thương tật vì đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Từ đó, hàng năm, ngày 27/7 trở thành "Ngày Thương binh toàn quốc". Từ năm 1955, "Ngày Thương binh toàn quốc" được đổi tên thành "Ngày thương binh, liệt sĩ".

Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: "Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận", để mỗi "thương binh tàn nhưng không phế".

Trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi sang thăm nước Pháp, Người đã viếng thăm và đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm chiến sĩ tử trận tại Biarit, mộ chiến sĩ vô danh tại Khải Hoàn Môn, mộ liệt sĩ bị phát xít Đức bắn trên đồi Valêriêng. Người nói "Trông thấy nghĩa sĩ Pháp vì độc lập và tự do mà bị người Đức tàn sát, lại nhớ đến nghĩa sĩ Việt cũng vì độc lập, tự do mà cũng bị người khác tàn sát, khiến cho người ta thêm nỗi cảm động ngậm ngùi". Tình yêu thương, nhân ái của vị lãnh tụ kính yêu đã không bị một ranh giới địa lý hay chính trị nào giới hạn mà trở thành yếu tố của lý tưởng chung: Bình đẳng và bác ái giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Từ đó, Người khẳng định: Dù ở đâu, bất cứ nơi nào: Độc lập - tự do đều do xương máu của các nghĩa sĩ và sự đoàn kết của toàn dân mà xây nên. "Vậy nên, những người chân chính yêu chuộng độc lập, tự do của nước mình, thì cũng phải kính trọng độc lập, tự do của dân tộc khác".

Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ còn được thể hiện ở những nghĩa cử cao đẹp, bình dị và rất đỗi tự nhiên trong đời sống thường ngày. Người thường trích lương, dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.

Ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sĩ Hà Nội vào các dịp lễ tết: "Ngày mai là năm mới... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ". Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ: "Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ"; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sĩ, thương binh.

Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sĩ, Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sĩ và làm tốt hơn nữa công tác "Đền ơn đáp nghĩa". Nhiều tổ chức Hội như "Hội mẹ chiến sĩ", "Hội ủng hộ thương binh" được thành lập; nhiều phong trào như "Trần Quốc Toản", "Đón thương binh về làng" được phát động rộng rãi, góp phần cùng Đảng, Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, thắt chặt thêm tình quân dân như "cá với nước".

Nặng lòng với thương binh và gia đình liệt sĩ, trước lúc đi xa, trong bản Di chúc bất hủ, Người căn dặn: "Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình" cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...", Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".

Đối với các liệt sĩ mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhận sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương... phải giúp đỡ họ có công ăn, việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói, rét".

Với truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa" của dân tộc, ghi nhớ và thực hiện Lời dạy của Người, 69 năm qua (27/7/1947 - 27/7/2016), Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã thường xuyên quan tâm và thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, chính sách đối với người có công với cách mạng. Các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa" ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc con liệt sĩ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sĩ... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội. Đặc biệt, trong năm 2015, tỉnh đã nỗ lực hoàn thành dự án xây dựng Đền thờ Liệt sĩ tỉnh Thái Bình; đây là công trình văn hóa lịch sử, có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, nơi tưởng nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ của tỉnh; đồng thời là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời, trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 7 vạn đối tượng người có công, các chính sách về chăm sóc sức khỏe; trang cấp, ưu đãi giáo dục đào tạo và các chính sách khác đối với người có công; tổ chức thực hiện có hiệu quả đề án xác nhận hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin. Đến nay, toàn tỉnh có 98,3% gia đình chính sách có mức sống bằng và cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa phương nơi cư trú, trong đó nhiều gia đình có mức sống khá; đời sống các gia đình chính sách ổn định và từng bước cải thiện đã góp phần giữ vững và ổn định về chính trị - xã hội cho các địa phương trong tỉnh.

Đã 69 năm trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn "Ngày thương binh", toàn Đảng, toàn quân ta vẫn đang nỗ lực thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, đền ơn, đáp nghĩa những người có công với nước. Các chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công đã phát huy cao độ truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" - truyền thống tốt đẹp đã có từ hàng ngàn năm nay của dân tộc Việt Nam, tiếp thêm ngọn lửa của tình đoàn kết và lòng yêu nước trong các thế hệ con Lạc cháu Hồng. Những câu nói, bài viết của Bác đã và sẽ mãi mãi là phương châm hành động, lẽ sống của thương binh, gia đình liệt sĩ, định hướng cho các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa" của nhân dân ta.

Nguồn Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

  • Từ khóa