Thứ 7, 09/08/2025, 05:01[GMT+7]

Ông Nghè họ Phạm thôn Đồng Kênh Còn mãi tiếng thơm

Thứ 5, 26/07/2012 | 09:37:56
3,662 lượt xem
Ở thôn Ðồng Kênh (Quỳnh Hoàng, Quỳnh Phụ) có dòng họ Phạm được nhiều người ca ngợi về truyền thống hiếu học và yêu nước.

Nhà thờ ông Nghè Phạm Duy Du ở thôn Ðồng Kênh (Quỳnh Hoàng, Quỳnh Phụ). Ảnh: Phạm Chính Nghĩa

Năm 16 tuổi, cụ đồ Phạm Vũ Tiệp (sinh năm 1753) đỗ tú tài được bổ giữ chức Ðề lãnh kinh thành (coi 4 mặt thành Thăng Long), sau về dạy học ở Hưng Trai, huyện Long Tài, phủ Thuận Thành (Bắc Ninh). Ðến năm 1825, cụ chuyển gia đình về làng Cần Phán, tổng Ðồng Trực, huyện Quỳnh Côi (tên địa danh trước đây) lập nghiệp và mở lớp dạy chữ nho. Cụ đã dạy nhiều học trò thành đạt và đỗ cao.

Con trai cụ Phạm Vũ Tiệp là Phạm Quý Ðức (sinh năm 1805) được cụ rèn đức, luyện chữ từ nhỏ. Ðến kỳ thi Ân khoa năm Mậu Thân niên hiệu Tự Ðức thứ nhất (1848) Phạm Quý Ðức đỗ Phó bảng. Ông được bổ nhiệm làm Tư nghiệp Quốc sử giám, sau đổi chức Toản tu. Năm 1862 vì phẫn nộ trước việc triều đình Huế cắt 3 tỉnh miền đông Nam kỳ cho Pháp nên ông xin từ quan về quê dạy học. Con gái ông là vợ Bang biện quân vụ Hoàng Ðình Tốn, người Hoàng Nông (nay là xã Ðiệp Nông, huyện Hưng Hà) sau này là vị thủ lĩnh chống Pháp nổi tiếng. Con trai út của ông là Phạm Duy Du sinh năm Ất Mão (1859) đã nối gót ông cha dùi mài kinh sử.

Năm Tân Mão (1891) Phạm Huy Du thi đỗ cử nhân, năm Ất Mùi (1895) niên hiệu Thành Thái thứ 7 thi đỗ Ðệ tam giáp Ðồng tiến sỹ xuất thân. Sau khi đỗ tiến sỹ, Phạm Duy Du được khắc tên vào bia đá dựng ở Ðại nội – Huế, được vua ban mũ, áo, hia, hốt, 1 cành kim trâm, được che 2 lọng xanh. Ngoài ra, còn được ban cờ biển vinh quy, được dự cỗ yến, được thăm vườn thượng uyển, thăm phố phường kinh đô Huế, rồi về quê “Vinh quy bái tổ”. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Tri phủ Kiến Thụy (Hải Phòng). Ông học được ở ông cha tính liêm khiết, cương trực, lòng thương dân. Tuy ông làm quan đầu phủ nhưng gia đình vẫn bần hàn; đổi lại con cháu đều đỗ đạt cao. Ông là tấm gương quan thanh liêm thời ấy.

Vào cuối thế kỷ 19 nhà Nguyễn thường xuyên duy trì một đội quân thường trực lớn để bảo vệ chế độ chuyên chế, sẵn sàng đàn áp mọi phong trào phản kháng của nhân dân. Nạn xâm lăng của chủ nghĩa tư bản phương Tây đã bao phủ đè nặng lên đất nước bằng những chính sách phản động và những cuộc đàn áp đẫm máu. Nhà Nguyễn đã tự mình phá hủy hai chỗ dựa từng tạo nên sức mạnh cho các vương triều trước đây là nhân dân và dân tộc. Các cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra ở khắc mọi nơi. Năm 1897, ông Phạm Duy Du ngầm liên hệ với kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm và làm nội ứng cho Mạc Ðình Phúc nổi dậy đánh chiếm phủ Kiến Thụy một cách dễ dàng. Cuộc khởi nghĩa sau đó thất bại, Mạc Ðình Phúc bị xử chém đầu. Ông Phạm Duy Du bị triều đình quy tội có biểu hiện vô trách nhiệm khi thi hành nhiệm vụ, không thông báo về những hiện tượng đáng ngờ xảy ra trong địa hạt quản lý và đã bỏ trốn, không sử dụng các phương tiện hiện có để chống lại cuộc phản loạn. Ông bị kết tội và cùng với một số tù nhân Bắc Kỳ bị đày ra Côn Ðảo. Lúc xuống tàu ông đã dặn dò con cháu khi ra đưa tiễn là nhớ ngày ông bị đi đày làm ngày giỗ. Vì ông xác định sẵn sàng hy sinh giữ khí tiết, nhất định không hợp tác và đầu hàng giặc Pháp.

Ông Phạm Duy Du sau  những tháng ngày ở nơi địa ngục trần gian Côn Ðảo, phải lao động khổ sai, khi sức tàn lực kiệt đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 27-6 năm Mậu Tuất (1898), khi đó mới ở tuổi 39. Ðến nay con cháu vẫn chưa tìm được phần mộ của ông. Trước cái chết của ông, một vị Tú tài và là bạn tù cảm thương với tấm lòng yêu nước thầm lặng của ông đã làm đôi câu đối:

“Từ biệt dĩ tốn thanh, phong vũ nhất thiên lưu phẫn nộ

Nhân sinh bất tương kiến, hải quan vạn lý mộng hồi quy”

Tạm dịch là:

Khi chết ít được biết tiếng đất trời phong ba liền nổi giận.

Lúc sống không được gặp mặt, bể xa muôn dặm vẫn thấy ông.

Hồi đó mọi người ở Kiến Thụy nơi ông làm tri phủ và Quỳnh Côi quê hương ông đã truyền nhau câu thơ của Phạm Duy Thanh ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của ông:

“Ðỗ ông Nghè                                             

  chẳng đe hàng tổng

Chỉ một lòng thù giặc, thương dân

Làm tri phủ không ham phú quý

Chết lao tù còn mãi tiếng thơm”.

Tuy cuộc đời và sự nghiệp của ông rất ngắn ngủi, chỉ lóe lên như một vệt sao băng trong đêm trường nô lệ dưới ách thực dân, nhưng mãi sáng trong lòng dân và con cháu dòng họ Phạm.

Noi gương các bậc tiền nhân, con cháu nhiều thế hệ trên mọi miền Tổ quốc tiếp nối truyền thống của ông cha trong học tập, rèn đức, luyện tài. Nhiều người đỗ tiến sỹ, cử nhân, nhiều liệt sĩ hy sinh trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày ông Nghè Phạm Duy Du bị đày ra Côn Ðảo, chúng ta cùng thắp nén tâm nhang và ôn lại những kỷ niệm về cuộc đời và sự nghiệp của ông – một nhà nho yêu nước. Mong rằng mai đây khi đủ điều kiện có thể sẽ được Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình xét cấp bằng “Di tích lịch sử văn hóa” cho nhà thờ ông ở quê hương, để con cháu dòng họ Phạm tôn tạo, bảo quản đến mai sau.

 

Đặng Văn Namon>

(Phường Cửa Bắc, Thành phố Nam Ðịnh)

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày