Thứ 2, 03/03/2025, 20:31[GMT+7]

Danh xưng và sự kiện thành lập tỉnh Thái Bình

Thứ 2, 03/03/2025 | 09:29:49
4,275 lượt xem
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển I - kỷ nhà Lê chép một sự kiện về Ngọa Triều Hoàng đế: “Mùa đông năm Ất Tỵ - Ứng Thiên thứ 12 (1005)... vua thân chinh đi dẹp loạn... quân về đến Đằng Châu, đổi tên châu ấy làm phủ Thái Bình...”. Như vậy là địa danh Thái Bình ra đời ở Việt Nam với tên gọi một phủ cho đến năm 2005 vừa tròn 1.000 năm tuổi và đến năm 2025, kỷ niệm 135 năm thành lập tỉnh thì địa danh Thái Bình đã có 1.020 năm tuổi.

Thành phố Thái Bình.

Khi Đằng Châu được đổi tên là phủ Thái Bình thì phủ Thái Bình gồm vùng đất các huyện phía nam Hưng Yên và phần lớn đất đai thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay. Danh xưng phủ Thái Bình tồn tại từ năm 1005 đến năm 1945, khi thành lập chính quyền cách mạng mới bỏ cấp phủ. Tuy địa dư, duyên cách của phủ này có nhiều đổi thay qua các thời kỳ lịch sử nhưng địa danh Thái Bình vẫn trường tồn. 

Vào thế kỷ XI, nhà Lý chia đất nước thành 24 lộ. Phủ Thái Bình thời Tiền Lê được chia thành 3 lộ: Khoái Châu, Long Hưng và Kiến Xương. Thái Bình là tên gọi của một hương. Đến cuối thời Trần, vào niên hiệu Quang Thái tứ 10, đời Trần Thuận Tông (1397) lộ Long Hưng tách thành hai lộ là Long Hưng và An Tiêm, Thái Bình là tên gọi một huyện thuộc lộ An Tiêm. Đến thời Lê (thế kỷ XV), Lộ An Tiêm đổi thành phủ Thái Bình gồm các huyện Đông Quan, Thụy Anh, Quỳnh Côi, Phụ Dực. Dưới triều Nguyễn, vào năm Tự Đức thứ 3 (1850), cắt chuyển huyện Thanh Quan từ phủ Tiên Hưng về phủ Thái Bình, đồng thời chia phủ Thái Bình thành phủ Thái Bình quản 3 huyện: Đông Quan, Thụy Anh, Thanh Lan và phân phủ Thái Bình quản 2 huyện: Quỳnh Côi và Phụ Dực. 

Trước khi thành lập tỉnh, vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Đến năm 1831, bỏ trấn thành lập tỉnh thì phủ Tiên Hưng gồm các huyện Thần Khê, Diên Hà, Hưng Nhân và Thanh Quan thuộc tỉnh Hưng Yên. Phủ Kiến Xương, phủ Thái Bình thuộc về tỉnh Nam Định. Vào thời kỳ ấy, phủ Kiến Xương gồm các huyện Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định (Trực Định) và Tiền Hải; phủ Thái Bình gồm các huyện Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Anh và Đông Quan. 

Ngày 21/3/1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Điều 1 của nghị định này nêu rõ: “Nay thành lập lấy tên là Thái Bình một tỉnh mới gồm phủ và phân phủ Thái Bình và phủ Kiến Xương tách ra từ tỉnh Nam Định và huyện Thần Khê tách khỏi tỉnh Hưng Yên sẽ sáp nhập lại về hành chính vào phủ Thái Bình...”. 

Điều 2 của nghị định nêu rõ: “Tỉnh lỵ Thái Bình sẽ lập ở phủ Kiến Xương trên sông Trà Lý...”. 

Như vậy, vào thời điểm thành lập tỉnh Thái Bình (21/3/1890), hai huyện Diên Hà và Hưng Nhân (Hưng Hà ngày nay) vẫn thuộc tỉnh Hưng Yên. Cũng vào thời điểm đó tỉnh lỵ Thái Bình có tên Kiến Xương. 

Dinh công sứ Thái Bình năm 1928. Ảnh tư liệu

Ngày 28/11/1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đưa phủ Tiên Hưng về tỉnh Thái Bình (huyện Tiên Lữ vốn thuộc phủ Tiên Hưng nhập vào phủ Khoái Châu thuộc tỉnh Hưng Yên). Hai huyện Diên Hà và Hưng Nhân lập thành phủ Tiên Hưng được cắt về tỉnh Thái Bình. 

Ngày 7/12/1895, Thống sứ Bắc Kỳ đã ký nghị định thành lập thị xã Thái Bình. Thị xã Thái Bình khi ấy chỉ gồm những phố quanh thành, đặt tiền đề cho thành phố Thái Bình được mở mang như ngày nay. 

Thái Bình từ tên gọi một phủ đến tỉnh và thành phố là cả một quá trình hội cư, hợp cư, chinh phục, cải tạo và khai thác tài nguyên của vùng đất này. Truyền thống quật cường trong sản xuất và chiến đấu đã được in đậm trong các trang sử của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là quá trình tạo lập và bồi đắp nền văn hóa, văn minh nông nghiệp mang những sắc thái riêng của Thái Bình. 

Hàng ngàn năm về trước, vùng đất được đặt tên Thái Bình có sức hút mạnh mẽ các luồng cư dân bốn phương đổ về khai phá và đất Thái Bình trở thành một bình chứa các sắc thái văn hóa bốn phương. Khi cư dân Thái Bình ngày một đông đúc thêm, quai đê lấn biển mở làng lập ấp không đáp ứng được nhu cầu sinh tồn và phát triển, người Thái Bình lại tìm đường ra đi làm ăn, sinh sống ở bốn phương. Thế là, Thái Bình vừa là một bình chứa vừa là một máy phát về văn hóa, văn minh của nước Nam. 

Lại cũng cần phải thấy rằng, đất đai, làng xã của tỉnh Thái Bình đã cơ bản ổn định vào thời Lý - Trần. Huyện Tiền Hải được thành lập vào năm 1828, là hệ quả của công cuộc đại khẩn hoang do Nguyễn Công Trứ tổ chức, nhưng không phải vào thời điểm đó đất đai và cư dân Tiền Hải mới hình thành mà một bộ phận đáng kể làng xã của huyện Tiền Hải đã có từ nhiều trăm năm trước. 

Xưa và nay, khi điểm đến truyền thống của Thái Bình, người ta thường thiên về nhấn mạnh các truyền thống quật cường, quả cảm, giỏi thâm canh lúa, hiếu học thành danh, sáng rối tối chèo... mà dường như ít ai chú ý đến Thái Bình còn là đất phát đế vương. 

Vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) đã quật khởi đánh đuổi giặc Lương khai vương xưng đế lập lên nhà nước Vạn Xuân. Những thần tích, thần phả, những di sản Hán Nôm trên bia đá, chuông đồng còn lưu ở các đền, miếu, đình, chùa thờ Lý Bí, thờ vợ ông (Hoàng hậu Đỗ Thị Khương) và các tướng lĩnh của ông đã từng gợi mở cho nhiều luận định Lý Bí quê ở Thái Bình. 

Vùng đất Ngự Thiên - Long Hưng, nay thuộc Hưng Hà vốn là nơi phát nghiệp, giữ nghiệp, hưng nghiệp của nhà Trần. Sử xanh còn đó, lăng tẩm, tôn miếu còn đây. Tổ tiên nhà Trần làm nghề đánh cá. Những người con tộc Trần có công mở nghiệp và các vị vua đầu triều Trần đã sống trọn tâm thức sống ngâm da, chết ngâm xương ở đất Long Hưng. Lăng mộ thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung ở làng Phù Ngự, nay thuộc địa phận xã Liên Hiệp và lăng tẩm các vị vua Trần tại Tam Đường, nay thuộc xã Tiến Đức (Hưng Hà) là những minh chứng hiển hiện về Thái Bình với sự nghiệp thời Trần. 

Do chung đúc khí thiêng sông biển, Thái Bình thời nào cũng xuất hiện những anh hùng hào kiệt mà có lẽ nổi trội nhất là vào thời Lê sơ và Lê Trung hưng (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII). Dằng dặc những danh nhân đất Việt, những nhà khoa bảng thời Lê có quê ở Thái Bình đã làm sáng thêm bầu trời văn hiến Việt Nam như Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Nguyễn Bảo, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn... mệnh mạch đó được tạo thành dòng chảy văn chương, khoa bảng trong nhiều làng xã, nhiều dòng họ ở Thái Bình. Thái Bình còn là quê hương của những vị thủ lĩnh kiệt hiệt trong các phong trào nông dân khởi nghĩa, tiêu biểu như Hoàng Công Chất (? - 1767), Phan Bá Vành (? - 1827). 

Lại nữa, Thái Bình cũng còn là nơi “đất lành chim đậu”. Hai đại thi hào của dân tộc là Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đều là giai tế của Thái Bình. Nguyễn Công Trứ vốn sinh ra từ Thái Bình, ở tuổi ấu thơ từng thấm đẫm hơi thở của đất này mà nuôi hoài bão “phải có danh gì với núi sông” và ông đã trả nghĩa sinh thành với Thái Bình bằng việc tổ chức cuộc đại khẩn hoang lập ra huyện Tiền Hải. Và, cũng cần thấy thêm là từ xưa đến nay đã có biết bao bậc “tao nhân mặc khách” đã nhờ những năm tháng tắm mình ở đồng đất Thái Bình mà có công danh sự nghiệp để đời. 

Khi Pháp xâm lược Việt Nam, người Thái Bình quật khởi Cần Vương chống Pháp và đó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc ra đời tỉnh Thái Bình. Ý chí quả cảm, quật cường của người Thái Bình được hun đúc từ ngàn xưa, được tôi luyện thêm từ sau khi thành lập tỉnh, để rồi Thái Bình lập tiếp những dấu son từ buổi đầu dựng Đảng đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đang lập tiếp những dấu son trong thời kỳ đổi mới.

Nguyễn Thanh
(Vũ Quý, Kiến Xương)

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày