Thứ 6, 15/08/2025, 18:06[GMT+7]

Làng có Chiêm Bái Ðường

Thứ 2, 06/06/2016 | 09:20:27
3,265 lượt xem
Ở làng Ðộng Trung thuộc phủ Kiến Xương xưa (nay là Vũ Trung, huyện Kiến Xương) có gia đình chí sĩ họ Nguyễn vốn có truyền thống yêu nước, đó là Nguyễn Mậu Kiến (1819 - 1879). Làm quan Án sát triều Nguyễn đến năm 1873, thời vận “trong đục bất phân”, triều chính nghiêng ngả, bên ngoài kinh thành lúc này nổi lên những bè đảng tham quan, hại dân, hại nước. Tính tình cương trực, căm ghét bọn hại dân nên Nguyễn Mậu Kiến liền dâng sớ lên triều đình kể tội bọn tham quan hại dân, đầu hàng giặc Pháp.

Bức Đại tự Học Bác Thuyết Chính do vua Tự Đức ban tặng cho Nguyễn Mậu Kiến vẫn được treo tại từ đường Nguyễn Mậu Kiến.

 

Làng Ðộng Trung còn có tên nôm là làng Sóc. Làng được bao bọc bởi những dòng sông: sông Kiến Giang, sông Cù Là, sông Lang, sông Bặt, sông Vân và nhiều rạch ngòi khác trong các thôn xóm. Với địa thế phong thủy như vậy, làng Ðộng Trung đúng là đất “địa linh nhân kiệt”. Mạch nguồn tuôn chảy tạo nên lớp danh nhân hào kiệt, ví như dòng họ Nguyễn Ðăng, ba đời có bốn quận công, dòng họ Nguyễn Ngọc có 4 quận công, 18 hầu tước, dòng họ Nguyễn Hữu có một quận công triều nhà Lê và dòng họ Ðặng Xuân có một tham tán đại thần triều Nguyễn. Dòng họ nhà Nguyễn Mậu Kiến liên tiếp 4 đời (tính từ đầu thế kỷ XIX, mỗi đời đều có từ một đến năm bảy người xứng đáng là danh nhân văn hóa, nhân sĩ yêu nước kiệt xuất). Người dựng nghiệp chi họ là cụ Nguyễn Ðăng Thiện (1766 - 1853). Con trai là Nguyễn Mậu Kiến, người thừa kế nghĩa khí và chí lớn cùng gia sản của cha, sớm trở thành người có “học thuật phả quảng” (vua Tự Ðức phê khen) và trở thành quan án sát được thăng hàm Trung nghị đại phu, Quang lộc tự khanh.

 

 

Nghiên mực bằng đá được Chiêm Bái Ðường sử dụng còn lưu giữ tại từ đường Nguyễn Mậu Kiến.

 

Nhà in Chiêm Bái Ðường cũng do cụ Nguyễn Ðăng Thiện để lại. Sau khi trút bỏ áo quan, về quê, Nguyễn Mậu Kiến tổ chức lại hoạt động nhà in, số sách in còn lưu được ở các bảo tàng chủ yếu được in trong thời của ông. Dân làng Ðộng Trung còn lưu truyền những câu chuyện kể về ông như: ông đã từng góp tiền, vàng để mở mang việc học trong làng, ông đã hiến ruộng đất canh tác vào quỹ “học điền” và đích thân đứng ra xây dựng trường học…

 

Ông còn bỏ tiền mời thầy giỏi về dạy chữ cho con em trong làng. Gặp khi mùa màng thất bát, nhìn nhân dân đói ông không cầm được lòng nên đã bỏ tiền của ra làm cứu chẩn cho người nghèo. Không những thế, ông còn đứng ra vận động quyên góp người khá giả trong thiên hạ chung tay vì người nghèo. Với những việc làm nghĩa cử, triều đình nhà Nguyễn đã ban khen ông với danh hiệu: “Lạc quyên nghĩa cử” vào năm 1858; và “Hiếu nghĩa lạc quyên” vào năm 1866.

 

Từ đời cha là cụ Nguyễn Ðăng Thiện đến đời con Nguyễn Mậu Kiến, nhà in Chiêm Bái Ðường làm ra sách không cần thu lời, thu lãi, chỉ cốt có nhiều sách cho học trò. Cả hai cha con Nguyễn Mậu Kiến đã thực hiện đúng ý nguyện với Chiêm Bái Ðường: “Có sách không thể không đọc. Nhưng nếu chỉ chứa sách làm của báu cho một nhà sao bằng in ấn rộng rãi cho đời cùng đọc, cùng nghiên cứu...”. Giặc Pháp mở rộng chiếm đóng, chúng đem thêm quân đi cướp bóc, đốt phá các làng quê dọc theo các triền sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình... Khi quân Pháp tiến đánh Vân Môn, Nguyễn Mậu Kiến đã tập hợp 2.000 nghĩa quân đánh lại. Cuộc chiến giữa những người dân áo vải, cờ đào, vũ khí chủ yếu là giáo mác, gậy gộc nhưng với sự lãnh đạo của ông, cộng với lòng căm thù giặc Pháp xâm lược mà trận đọ sức không nghiêng về bên nào.

 

 

Bản in sách Chu Dịch Triết Trung do Nguyễn Mậu Kiến hiệu đính và in tại nhà in Chiêm Bái Ðường.

 

Giặc Pháp gặp phải sự chống trả quyết liệt đã không dám tiến thêm. Sang năm Giáp Tuất 1874, triều đình Nguyễn nhu nhược đã phải ký hiệp ước hòa hoãn với Pháp. Vua Tự Ðức ra lệnh bãi binh. Nguyễn Mậu Kiến thấy thế liền “nghịch chí” liều thân chống lại. Vua Tự Ðức hạ chiếu xung ông vào Quân thứ Hiệu lực ở Sơn phòng Hưng Hóa (làm một anh lính trơn đi hiệu lực quân thứ ở tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang ngày nay). Tuy bị xung lính một cách oan uổng, nhưng Nguyễn Mậu Kiến vẫn thản nhiên, ông sống theo đạo quân tử “Bất vu nhân, bất oán thiên” (nghĩa là không trách người, không oán trời). Tại đây, ông tiếp cận được với Nguyễn Ðức Trạch, anh ruột của thủ lĩnh Cần vương chống Pháp Nguyễn Quang Bích. Sát cánh, kề vai, các ông tiếp tục chiến đấu chống Pháp thêm được 5 năm nữa. Thấy ông không màng chi danh lợi, lại quyết tâm kháng Pháp cứu non sông, lúc ấy Tổng đốc tỉnh Nam Ðịnh là Nguyễn Võ Trọng Hợp dâng sớ lên vua đề cử ông vào Khâm thiên giám, cũng bởi biết ông am tường thiên văn. Vua Tự Ðức triệu ông về bệ kiến. Nghe ông thuyết sách về thiên văn, địa lý, vua Tự Ðức khâm phục vì sự hiểu biết uyên thâm và khả dụng của ông liền ban chiếu chỉ cho khôi phục hàm Kiểm thảo, tạm thời cho đi giữ việc sơn phòng ở đồn vàng, thuộc tỉnh Hưng Hóa (Tuyên Quang). Không nản chí, ông đưa cả mấy người con trai đi theo. Rừng thiêng, nước độc, mấy cha con cùng nhau cầm cự, khai đường, dựng lối, mở mang đồn điền. Chốn sơn lam chướng khí, lao tâm, khổ lực vì nhiệm vụ đã khiến ông lâm bệnh trọng. Ngày 22 tháng 10 năm 1879, ông đã trút hơi thở cuối cùng. Nghe tin, triều đình Huế truy tặng ông hàm Bố chánh gia Nghị Ðại phu Tư trị khanh. Sắc phong ông “Học bác thuyết chính”; “Hiếu nghĩa khả phong”.

 

Làng có Chiêm Bái Ðường, làng nhiều sách. Mạch nguồn văn hóa làng tiếp nối từ tâm nguyện của cha con Nguyễn Mậu Kiến: “Có sách không thể không đọc. Nhưng nếu chỉ chứa sách làm của báu cho một nhà sao bằng in ấn rộng rãi cho đời cùng đọc, cùng nghiên cứu...”. Bản thân Nguyễn Mậu Kiến viết nhiều sách. Văn học có:  Kinh đài tập Vịnh, gồm 8 thiên; Triết học có bộ Dịch lý tân biên gồm 8 thiên; Lịch sử có Minh Sử luận đoán khảo biên gồm 4 quyển; Thiên văn có bộ Chiêm Thiên tham khảo gồm 8 quyển.

 

 

Ông Phạm Minh Ðức, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian

 

Chiêm Bái Ðường có nghĩa là nhìn thấy nơi giảng đường, thật sự là một hoạt động văn hóa có một không hai ở Thái Bình thời bấy giờ. Ðây cũng là nơi truyền bá phong trào Duy Tân và Ðông Kinh nghĩa thục ở Thái Bình. Hai người con của Nguyễn Mậu Kiến cũng là chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương và Nguyễn Hữu Bản đã biến nơi đây thành trường học, nơi đào tạo nhân tài.

 

Ông Nguyễn Thanh, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian

 

Ngoài sự nghiệp Cần Vương kháng Pháp, về góc độ văn hóa, cái độc đáo nhất của Chiêm Bái Ðường là in sách nhưng không kinh doanh, thể hiện quan điểm khai trí cho nhân dân của Nguyễn Mậu Kiến rất rõ ràng. Bởi vì, để in được một cuốn sách lúc bấy giờ, ông phải chi một khoản tiền lớn cho thợ khắc bản in bằng gỗ (mộc bản) và mỗi trang sách một bản. Tiếc rằng, các bản khắc để in đã bị giặc Pháp đốt phá. Số lượng sách in của Chiêm Bái Ðường cũng bị đốt rất nhiều. Theo PGS, TS Ðinh Khắc Thuân (Viện Sử học), hiện số sách do nhà in Chiêm Bái Ðường xuất bản được lưu giữ tại Viện Viễn Ðông Bác Cổ (Pháp) có tới hàng mét khối.

 

Ông Ðào Hồng, nguyên Trưởng phòng Bảo tồn, Bảo tàng tỉnh

 

Nhà in Chiêm Bái Ðường do cha con Nguyễn Mậu Kiến lập nên nhằm in sách phát triển tri thức cho nhân dân thể hiện tư tưởng canh tân đất nước của sĩ phu yêu nước Nguyễn Mậu Kiến cùng các con Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản không những mở mang tri thức cho nhân dân mà còn nâng cao nhận thức cho nhân dân chiến đấu với sự xâm lăng, đồng hóa văn hóa ngoại lai. Khẳng định tâm nguyện chấn hưng dân tộc trước hết phải chấn hưng dân trí.

 

 

Quang Viện

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày