Thứ 7, 10/08/2024, 02:25[GMT+7]

RỰC RỠ KIẾN TRÚC CỔ GIỮA MIỀN QUÊ LÚA KỲ I: TÒA NGANG, DÃY DỌC MỘT THỜI HÙNG OAI

Thứ 2, 13/09/2010 | 20:40:50
6,260 lượt xem
Không ngoại lệ, Thái Bình - vùng đất "ven bờ cuối bãi" nằm ở hạ lưu các con sông lớn thuộc vùng duyên hải bắc bộ cũng có Đạo Phật, đạo Nho và sau đó là Thiên chúa giáo xâm nhập. Ngược dòng lịch sử, dưới triều Đinh - Lê đạo Phật đã được truyền giáo khá sâu rộng, cho đến triều Lý - Trần đạo Phật đã trở lên thịnh hành, tầm quốc gia được coi như quốc giáo và chiếm địa vị độc tôn trong tín ngưỡng của nhân dân.

Cong vút mái đao Ảnh: Quang Viện

Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" đã khái quát diện mạo nước ta thời đó: "nhân dân quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa". Tự nhiên không ban tặng cho Thái Bình nguồn tài nguyên để làm giàu, nhưng "tạo hóa" trao cho con người nơi đây bản lĩnh phi thường, chất sống giàu tình cảm.

Tòa Đại bái Đền Tiên La

Trải nghìn năm chống chọi giặc dã thiên tai, giữ đất, mở làng, những thế hệ tiền bối ở Thái Bình đã để lại cho con cháu hậu thế những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá, đáng kể đến là những chùa chiền, miếu mạo, trong đó còn lưu giữ nguồn sử liệu vô giá. Ngược dòng lịch sử, vào triều đại nhà Trần, đạo Phật được coi là quốc đạo nên vấn đề "tông miếu - xã tắc" luôn được coi trọng.

Thái Đường - Tiến Đức (Hưng Hà) là nơi được chọn để xây tông miếu nhà Trần, địa linh nơi đây phát tích đã hun đúc lên nguyên khí nhà Trần - một triều đại phong kiến phát triển rực rỡ trong lịch sử, ba lần phá tan đội quân Nguyên Mông tàn bạo, giữ yên bờ cõi. Chính sử còn ghi đại ý là: Quân Nguyên - Mông hung tàn đã nhiều lần tìm đến tông miếu Thái Đường đào bới, đập phá nhằm cắt đứt nguồn nguyên khí của vương triều.

Ảnh: Quang Viện

Chúng đã tàn phá không chút gợn lòng trắc ẩn đối với các công trình kiến trúc lăng tẩm Trần triều và chúng cũng đã gánh chịu đòn trừng phạt quyết liệt của nhân dân Đại Việt, âu cũng là quả báo. Hình ảnh mái đao với những nét phù điêu chạm khắc tinh xảo luôn là niềm tự hào của người dân Thái Bình. Năm Mậu Tý (1288), vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng đã về phủ Long Hưng, đem theo bọn tướng tá giặc đã bắt được như Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Đường Ngột Đãi, Mai Thế Anh, Sầm Đoạn, A Thai, Điền nguyên soái v.v.. để hiến tiệp trước bàn thờ của vua Trần Thái Tông, người anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1258.

Đứng trước tòa lăng của người ông anh hùng mà quân giặc đã đào bới, tàn phá man rợ hòng xóa đi dấu tích linh thiêng tông miếu nhà Trần oai hùng, đến nỗi mấy con ngựa đá (linh vật coi sóc tông miếu) cũng phải nghiêng ngả lấm bùn. Vị Hoàng đế anh hùng, nhà quân sự thiên tài Trần Nhân Tông không ngăn nổi xúc cảm đã thốt lên hai câu thơ, mãi mãi thể hiện tấm lòng nhân hậu ngay cả với vật vô tri (như ngựa đá) của một con người vừa ra khỏi khói lửa của chiến tranh, cùng niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn vĩnh viễn của dân tộc:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu

( Đất nước hai phen chồn ngựa đá

Giang sơn một thủa vững âu vàng)

Xem thế cũng đủ biết, các bậc vương triều đều rất coi trọng đời sống tâm linh, tông tổ và cũng vì thế mà diện mạo kiến trúc cổ ở Thái Bình phát triển rực rỡ. Không chỉ có công sức mà người dân và vương triều thời đó cũng dồn nhiều tiền bạc xây dựng chùa chiền, tạo dựng những kiến trúc độc đáo, dãy ngang, dãy dọc, hành cung, lăng tẩm, tầng tầng, lớp lớp, lầu son, gác tía...thể hiện ý thức tự chủ, tự cường, chống lại thế lực đồng hóa nham hiểm phương bắc.

Ảnh: Quang Viện

Nhìn vào các di khảo còn sót lại trong quá trình tìm kiếm khảo sát các di chỉ ở Hưng Hà, các mô hình kiến trúc đất nung trong những ngôi mộ cổ thời Trần chúng ta cũng có thể hình dung ra hệ thống lăng tẩm, cung điện nguy nga tráng lệ với phong cách mái đao, guột, lòng thuyền, tứ trụ, đỉnh tâm đại bờ, lắp ghép những đôi rồng lực lưỡng...in dấu một thời vàng son.

Dẫu còn sót lại ít ỏi, nhưng những tác phẩm điêu khắc mang đủ phong cách mềm mại, dẻo dai của thời Lý, cứng rắn và vững chãi của thời Trần, hòa quyện với màu xanh cây lá, sông nước...đã thể hiện sức mạnh quật khởi của vương triều đương đại. Đồng thời thể hiện sự sáng tạo của những nghệ nhân Thái Bình. Những ngôi đình, chùa, đền, miếu ở Thái Bình hầu hết đều được xây dựng theo những công thức nhất định theo chữ "nhất", chữ "nhị", chữ "tam", chữ "vương", chữ "đinh", chữ "công", hoặc "nội công ngoại quốc".

Ảnh: Quang Viện

Hiện tại loại "nội công ngoại quốc" thường đã bị đổ nát hoặc bị thu hẹp qua các lần trùng tu. Theo các tài liệu còn lưu trữ, ngôi đình có niên đại xây dựng sớm nhất Thái Bình có thể là Đình An Cố xã Thụy An - Thái Thụy. Ngọc phả của đình kể rằng: Trung quân Lỵ quốc công Nguyễn Thế Ân, người làng An Cố được nhà Mạc ban thưởng do có công lao lớn, đã đứng ra xin triều đình xây một ngôi đình cho quê mình.

Ảnh: Quang Viện

Lúc đầu, đình xây dựng có 7 gian, gọi là tòa đại đình, sau đó ít lâu, đình được bổ sung thêm 9 gian tiền tế, hàng chục gian nằm hai bên sân đình dành cho 8 giáp trong làng khi vào bội. Xung quanh đình có tường xây vây bọc và có tắc môn, trụ biểu, tường hoa trên diện tích đất khá rộng.

Đình xây dựng theo lối kiến trúc "tàu đao, lá mái" trông rất đồ sộ nhưng vững chãi, trài dài tới 26 mét, rộng lòng 10 mét. Bốn góc, tàu mái cong vút lên trời cao xanh như mơ ước của con người nơi đây muốn bay vút lên trời cao. Độc đáo hơn, đình xây dựng không cần làm móng. Tất cả tường, mái, nóc có trọng lượng hàng trăm tấn đè nén lên những hàng cột lim to hàng vài người ôm, dưới cột là đá tảng, được liên kết, giằng dọc, giằng ngang bằng các bẩy, câu đầu...

Có tới hàng ngàn chi tiết toàn bằng gỗ được lắp ghép công phu, tỷ mỉ và vừa khít tạo nên một hệ thống khung vững chắc. Nếu quan sát kỹ, chúng ta có thể nhận thấy các kiến trúc tôn giáo thường quay về hướng nam hay đông nam mát mẻ. Tuy nhiên, nhiều ngôi đình lại quay về hướng tây, rất có thể là do đòi hỏi chống ẩm của kiến trúc vì buổi chiều đón được ánh nắng mặt trời chiếu rọi vào, khiến đình luôn khô ráo.

Tiêu biểu trong kiến trúc đình ở Thái Bình được xây dựng vào thời Lê là: Đình Phất Lộc (Thái Giang); Hậu Trữ (Thụy Duyên - Thái Thụy); Duyên Lãng (Minh Hòa - Hưng Hà); đình Đông (Quang Bình - Kiến Xương)...Vào thời Lê, do chính sách ưu đãi với Phật giáo mà hàng loạt chùa chiền ở Thái Bình được trùng tu, phục dựng.

KỲ II: LÒNG NHÂN, NỀN KIẾN TRÚC

 Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

  • Từ khóa