Thứ 6, 22/11/2024, 16:08[GMT+7]

Nơi đặt tôn miếu nhà Trần

Thứ 4, 22/01/2020 | 17:48:32
6,179 lượt xem
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc đặt tôn miếu của các triều đại phong kiến từng được xác định là một việc hệ trọng có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của một vương triều. Tôn miếu và xã tắc là những khái niệm thiêng liêng, cùng chung sự tồn vong. Muốn giữ yên ngôi báu thì vương tộc cùng muôn dân phải dốc chí, đồng lòng bảo vệ, gìn giữ. Theo truyền thống, với tâm thức “lá rụng về cội” dường như các triều đại xưa thường chọn nơi phát tích để đặt tôn miếu.

Ảnh: THÀNH TÂM

Nhà Lý phát tích từ châu Cổ Pháp, Bắc Ninh. Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp, lên ngôi từ kinh đô Hoa Lư, sau dời đô về Thăng Long nhưng triều Lý đã chọn Cổ Pháp - Đình Bảng, Bắc Ninh làm tôn miếu để xây dựng lăng tẩm an táng các vị tiên đế cùng hoàng tộc. Lê Lợi dấy nghĩa từ đất Lam Sơn, Thanh Hóa khi đã giành được giang sơn, lên ngôi, đóng đô ở Thăng Long nhưng vẫn lấy núi rừng Lam Sơn là nơi đặt tôn miếu. Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề đánh cá từ đất Đông Triều. Đến đời Trần Kinh thì chuyển về Tức Mặc (Nam Định) và qua đời ở đó. Con trai Trần Kinh là Trần Hấp, nhờ tìm được thế đất tốt đã dời mộ bố về táng tại Mả Sao, hương Thái Đường, phủ Long Hưng, nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và cư trú tại đây. Từ nghề đánh cá, Trần Hấp cùng con cháu sau chuyển dần lên bờ làm ruộng và trở nên giàu có, ngày càng có thế lực mạnh bước vào vũ đài chính trị để sáng nghiệp đế vương. Trần Cảnh là hậu duệ đời thứ tư của họ Trần ở đất Long Hưng được trao ngôi báu từ tay nhà Lý.

Nhà Trần đã chọn Thái Đường - Long Hưng làm nơi đặt tôn miếu để xây dựng lăng tẩm an táng các vị vua và hoàng hậu đầu triều cùng nhiều trọng thần trong hoàng tộc. Thái Tổ Trần Thừa được táng tại Thọ lăng. Thái Tông táng tại Chiêu lăng. Thánh Tông táng tại Dụ lăng, Nhân Tông táng tại Đức lăng, đều thuộc đất Thái Đường. Hiển Tông táng tại An lăng nay thuộc phần đất xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà. Còn lại các vua Anh Tông, Minh Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Thuận Tông được táng tại Đông Triều. Vùng đất Tức Mặc, Nam Định được xây dựng hành cung để các vị Thượng hoàng về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Vì thế mới có chuyện đến nay có người còn chưa rõ tại sao cả Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình đều có đền Trần. Không ít người còn trăn trở đâu thờ là chính, là đúng...?

Khi giặc Mông - Nguyên tràn vào bờ cõi Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có bài hịch khuyên nhủ các tướng sĩ, ông đã cảnh báo nếu để non sông rơi vào tay giặc thì: “Không những xã tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị bới đào”. Thực tế lịch sử đã chứng minh là lời cảnh báo này là một sự tiên tri chính xác. Khi giặc Nguyên tiến quân vào Long Hưng, Ô Mã Nhi đã cho quân đào bới Chiêu lăng (lăng Trần Thái Tông) nhưng chưa tìm được quan tài.

Về tôn miếu, nơi đặt lăng tẩm các vua Trần, sách Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) cùng nhiều bộ sử lớn của quốc gia đã ghi chép khá cụ thể, tường tận. Còn về đất phát tích của nhà Trần, vì một chi tiết ghi chép thiếu đầy đủ của Toàn thư nên xưa và nay nhiều người vẫn chưa hiểu được một cách rạch ròi. Khi chép về Thái Tông hoàng đế sách Toàn thư đã chép: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định), sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê...”. Chính chi tiết này đã mâu thuẫn với toàn bộ những chi tiết khác được chép trong Toàn thư về sự phát tích của nhà Trần từ vùng đất Long Hưng, trong đó có sự kiện Trần Hấp rời mộ bố về táng tại Thái Đường, Long Hưng, định cư ở đó và sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Thừa sinh ra Trần Cảnh. Chính Toàn thư cũng đã chép khá tường tận về sự kiện Thái tử nhà Lý là Sảm chạy loạn về Lưu Gia (nay thuộc xã Canh Tân, huyện Hưng Hà) lấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung làm vợ, rồi phong làm Hoàng hậu nhà Lý.  Đây là duyên cớ quan trọng mang tính quyết định giúp con Trần Lý là Trần Thừa, cháu Trần Lý là Trần Thủ Độ, cùng nhiều danh thần khác vốn sinh ra và trưởng thành từ vùng đất Long Hưng tiến sâu thêm, leo cao hơn, nắm giữ những cương vị trọng yếu trong triều đình nhà Lý để dẫn đến chung cục nhà Lý đã trao vương triều cho nhà Trần. Trần Cảnh lên ngôi vua miếu hiệu Thái Tông, mở đầu vương triều Trần dưới sự đạo diễn tài ba của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ và Hoàng hậu Trần Thị Dung.

Tại vùng đất Thái Đường, nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, nhà Trần đã xây dựng hành cung Ngự Thiên nguy nga tráng lệ, đặt lăng tẩm và đền thờ các bậc tiên đế. Thế đất đặt hành cung và lăng tẩm được lưu truyền là “tiền tam thai hậu thất tinh”. Phía trước hành cung đặt các lăng tẩm để an táng và phụng thờ các bậc tiên đế cùng Hoàng hậu. Toàn thư và các bộ sử của nước ta đã ghi chép nhiều sự kiện các vua Trần cùng hoàng tộc và triều thần thường xuyên về lễ viếng mỗi khi có sự kiện trọng đại của quốc gia. Khi quân Nguyên chiếm đóng Long Hưng đã phá hủy toàn bộ hành cung và các lăng tẩm. Ghi chép về sự kiện ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) Thượng hoàng Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đem các tướng giặc bị bắt về làm lễ dâng thắng trận ở Long Hưng, sách Toàn thư đã chép: “Trước đó, quân Nguyên đã khai quật Chiêu lăng (lăng Trần Thái Tông) muốn phá đi, nhưng không phạm được tới quan tài...”.

Riêng với Trần Nhân Tông, sách Toàn thư đã ghi chép khá cụ thể về các sự kiện xuất gia, tu ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, trở thành tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm đời Trần và băng ở đó vào ngày mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), xác ngài được thiêu đưa về chùa Tư Phúc ở kinh sư (Thăng Long) sau đó về rước tại lăng Quy Đức được đặt trong khuôn viên tôn miếu nhà Trần tại Long Hưng. Đám rước linh cữu Trần Nhân Tông từ Thăng Long về an táng tại lăng Quy Đức (Đức lăng) ở Long Hưng vào năm Canh Tuất (1310) cũng đã được Toàn thư ghi chép tường tận: “Mùa thu, tháng 9, ngày 16, rước linh cữu Thượng hoàng về chôn ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ thì cất ở bảo tháp Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Đem Khâm Từ Bảo Thánh thái hoàng thái hậu hợp táng ở đấy...”.

Như trên đã trình bày, hành cung Ngự Thiên và lăng tẩm các vua Trần cùng hoàng tộc ở hương Thái Đường đã bị giặc Nguyên tàn phá. Có lẽ, để bảo toàn phần mộ, đề phòng chiến tranh tiếp diễn nên hầu hết lăng tẩm các vua Trần từ Anh Tông về sau được đưa về đặt tại Đông Triều. Vùng đất Thái Đường, nơi đặt tôn miếu nhà Trần dần trở nên hoang phế. Sau khi toàn thắng giặc, ngôi đền thờ các vua Trần đã được phục dựng lại, còn hành cung và lăng tẩm đã trở thành phế tích. Tiếc thay, ngôi đền này cũng đã bị phá hủy khi thực dân Pháp đổ bộ lên đất Thái Bình vào giữa thế kỷ trước. Nhân dân trong làng còn giữ được một số đồ thờ tự, trong đó có chiếc bài vị với dòng chữ: Thái Tông hoàng đế ngự. Đến năm 1954, dấu tích của khu mộ táng các vua, hoàng hậu cùng hoàng tộc nhà Trần còn dễ dàng nhận được. Phía trước hành cung theo thế “tiền tam thai” có các nấm phần với tên gọi phần Thính, phần Trung, phần Bụt, phần Cựu, mả Tít... Phía sau hành cung theo thế “hậu thất tinh” có các nấm phần với tên gọi phần Lợn, phần Ổi, phần Quang, phần Mao, mả Bà Già... Từ sau năm 1954 trở lại đây, hầu hết những ngôi mộ phía sau hành cung nằm xen kẽ trong khu dân cư đã bị hư hao dần.

Đến nay, phía trước hành cung còn ba ngôi mộ có tên phần Bụt (phần Sỏi), phần Thính, phần Trung. Ba ngôi mộ này như ba quả đồi án ngữ phía Nam Tam Đường, được coi là dấu tích duy nhất hiện còn trên mặt đất về tôn miếu nhà Trần. Phần còn lại đang là phế tích nằm trong lòng đất.

Riêng với Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, hai người có công đầu trong công cuộc khai sảng nhà Trần thì lăng mộ được đặt tại xã Phù Ngự, thời Nguyễn đổi là xã Khuông Phù, nay thuộc xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, cách nơi đặt tôn miếu chừng vài quãng đồng. Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có mô tả khá chi tiết về lăng Trần Thủ Độ.

Với tâm thức “sống ngâm da chết ngâm xương” ở nơi chôn nhau cắt rốn, nhà Trần đã chọn đất Long Hưng - Thái Bình làm nơi đặt tôn miếu, xây dựng lăng tẩm làm nơi an nghỉ vĩnh hằng cho các vị vua đầu triều cùng hoàng tộc. Cho đến nay, có không ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về đất sáng nghiệp của nhà Trần đã được công bố, nhưng có thể do việc truyền thông quảng bá còn hạn chế nên trong phạm vi toàn quốc và thế giới vẫn chưa thật nhiều người hiểu được thấu đáo về vấn đề này.

Nguyễn Thanh

Vũ Quý, Kiến Xương