Thứ 6, 06/06/2025, 20:43[GMT+7]

Gặp ở Ðiện Biên

Thứ 2, 09/05/2016 | 09:51:45
903 lượt xem
Năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 55 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ, tôi được ông Nguyễn Khản, nguyên Tổng Biên tập Báo Ðiện Biên Phủ kể cho nghe câu chuyện về người đồng đội của ông - chiến sĩ Ðiện Biên năm xưa quê ở Thái Bình. Tôi đã ghi lại song vì bận mải công việc nên chưa kịp viết thành tác phẩm hoàn chỉnh. Nay, nhân dịp kỷ niệm 62 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ, tôi xin kể lại câu chuyện “Gặp ở Ðiện Biên” với mong muốn được góp phần nhỏ bé tuyên truyền về chiến thắng “lừng lẫy năm châu,

Thành phố Điện Biên Phủ hôm nay.

 

Căn hầm thương binh ở chân đồi Khe Chít (xã Noong Bua, Ðiện Biên), ba bề là vách đất, phía ngoài thưng bằng những đoạn gỗ tròn chắc chắn, mái dàn gỗ, phủ đất, có ngụy trang, trông giống những ngôi nhà gỗ rừng Nga tuyết phủ thường thấy trên phim ảnh. Chiều dài hầm chừng mười hai mét, chiều ngang hầm chừng hơn ba mét. Hầm có hai cửa ra vào ở hai đầu. Hai cửa hầm đều quay ra phía đường mòn bìa rừng, mỗi cửa hầm đều có ụ đất chắn đạn. Sạp tre dát nứa trong hầm dài chừng 9 - 10 mét, chiều rộng chừng 1,9 mét, đủ chỗ nằm cho từ 8 -10 thương binh. Phía bên hai đầu hầm có giá để đồ đạc, lương thực, thực phẩm…

 

Thương binh Dũng nằm ở đầu sạp phía bên phải hầm nhìn từ đường mòn vào. Hàng ngày, nữ cứu thương Nhi sau khi đã xong việc phục vụ anh em thương binh trong hầm thường ngồi ở mé sạp phía gần cửa hầm bên phải an ủi, động viên thương binh Dũng và nghe anh kể chuyện. Từ khi biết rõ hoàn cảnh gia đình thương binh Dũng, cô lo lắng nhiều và gần gũi chăm sóc anh cũng nhiều hơn so với những thương binh khác.

 

Cảnh nhà nghèo đói, khi mới mười một, mười hai tuổi, Dũng đã phải đi ở cho địa chủ để kiếm miếng cơm thừa canh cặn sống qua ngày đoạn tháng. Hàng ngày Dũng làm quần quật đủ mọi việc, hết cắt cỏ, chăn trâu đến nấu cơm, rửa bát, quét nhà. Ngơi chân ngơi tay lúc nào là Dũng lại phải làm trâu cho thằng con trai tên địa chủ cưỡi. Nó kém Dũng hai tuổi nhưng to béo, nặng như “cối đá lỗ”. Mỗi lần phải làm trâu cho nó, hai đầu gối trần gầy guộc của Dũng như muốn vỡ ra, lưng còng võng xuống, chân tay mỏi nhừ, tê dại. Rồi chuyện chẳng lành đã đến với Dũng. Một hôm, làm trâu cho thằng con trai tên địa chủ cưỡi cả giờ, Dũng kiệt sức khuỵu xuống, đầu dúi về phía trước. Thằng con trai tên địa chủ đang hểnh mặt lên, tay quất roi, mồm kêu to: “Nhong nhong nhong..., ngựa cụ Bá đã về, cắt cỏ bồ đề cho ngựa cụ ăn” thì ngã nhào về phía trước, mặt đập mạnh xuống nền nhà gạch bởi sức nặng bị thịt của mình. Máu mồm, máu mũi nó tứa ra. Dũng hoảng quá, bỏ trốn biệt tăm khỏi làng.

 

Chánh Bật - tên địa chủ khét tiếng làng Ðồng Uyên hô hoán kẻ hầu sang nhà tìm bắt Dũng. Bọn đầu trâu mặt ngựa lục tìm, phá phách mấy ngày đêm nhưng không thấy Dũng. Chánh Bật sang nhà, bắt bố mẹ Dũng quỳ trước mặt mà rằng: “Vợ chồng mày giấu thằng oắt con ở đâu? Mau bắt nó về ngay không thì ông tru di tam tộc”.

 

 

Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ.

 

Thương con không biết phiêu bạt nơi nào, sống chết ra sao, lại bị Chánh Bật hành hạ ngày đêm, vơ vét đến từng bát gạo, củ khoai như muốn triệt đường sống, đến tận cùng của cực khổ, bố mẹ và em gái Dũng phải bỏ nhà đi tha phương cầu thực, phiêu bạt qua suối Rút, Hòa Bình rồi lên đến tận Sơn La. Ðói rét, bệnh tật và vì cả nghĩ, thương nhớ con, bố Dũng đã qua đời khi tuổi mới ngoài bốn mươi.

 

Dũng chạy trốn, bỏ làng ra đi theo đoàn người buôn bè, lên tận Phú Thọ, Tuyên Quang. Ăn mày, làm thuê, đi ở - trời phù hộ thế nào mà Dũng không bị chết đói, không ốm đau, bệnh tật. Dũng lớn nhanh, khỏe mạnh và cứng cỏi. Ðến tuổi, Dũng đi bộ đội. Ðơn vị của Dũng tham gia chiến dịch Sông Lô, chiến dịch Hòa Bình rồi hành quân một mạch lên Tây Bắc tham gia chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Sau trận Him Ðăm (núi đá đen), Dũng được bổ sung vào đại đội công binh, thuộc Ðoàn 317, làm nhiệm vụ đào đường hào đánh hầm cố thủ của địch ở đồi A1. Ðào gần xong đường hào, lúc đang cùng đồng đội đi thu gom thuốc nổ thì Dũng bị thương do sức ép của đạn pháo địch. Ðất và khói đạn phả vào mặt bỏng rát, hai mắt Dũng sưng tấy, không nhìn thấy gì nữa. Y sĩ, y tá đã rửa sạch, tra thuốc, băng kín ba bốn ngày rồi mà mắt Dũng vẫn rỉ nước.

 

Khi Dũng bị thương ngất đi, nữ cứu thương Nhi là người khênh cáng Dũng về căn hầm này và được giao nhiệm vụ ở lại chăm sóc Dũng cùng anh em thương binh trong hầm. Mỗi khi nghe Dũng kể chuyện, có những lúc không nén được tình cảm xúc động, Nhi chạy ra ngoài hầm, ngồi ở vệ đường mòn ôm mặt khóc nức nở.

 

Hoàn cảnh của Nhi cũng thật éo le. Bố cô mất sớm, nhà cửa chẳng có, hai mẹ con phải ở nhờ nhà người bác họ tận Sơn La. Ðược cán bộ địa phương tuyên truyền, vận động và vì căm thù đế quốc, phong kiến đã làm cho gia đình tan đàn xẻ nghé, Nhi đã tình nguyện theo đoàn dân công đi phục vụ chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Do trẻ khỏe, nhanh nhẹn, cô được vào đội cứu thương Ðoàn 317. Có lần Nhi muốn nói với thương binh Dũng điều gì đó nhưng vì sợ Dũng bị đột ngột, vết thương ở mắt lại đau thêm nên cô đã cầm lòng nén lại.

 

Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt lần nào đến thăm anh em thương binh ở đây cũng thấy nữ cứu thương Nhi ngồi bên thương binh Dũng thì thầm to nhỏ. Tối nay anh đến. Anh biết thương binh Dũng sắp bình phục, sắp được mở băng mắt mà dưới ánh sáng trăng suông hắt qua cửa hầm nữ cứu thương Nhi vẫn ngồi đó, quấn quít bên thương binh Dũng. Như để đề phòng điều gì đó có thể xảy ra, Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt gọi nữ cứu thương Nhi ra ngoài chỉnh đốn:

 

- Ðồng chí Nhi này! Ðây là chiến trường chứ không phải ở làng, ở chợ đâu nhá. Chưa chi đã yêu đương vớ vẩn, làm ảnh hưởng đến tư tưởng, ý chí chiến đấu của bộ đội là không được đâu! Ðồng chí chuẩn bị các thứ đi. Ra phía trước! Ở đây sẽ bố trí người khác chăm sóc thương binh.

 

Bị xúc phạm đột ngột, nữ cứu thương Nhi òa khóc như đứa trẻ. Một lúc sau cô mới trấn tĩnh lại, nhìn thẳng về phía Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt:

 

- Chú đừng có mà hiểu lầm! Chú chẳng hiểu gì cả! Cháu không đi đâu hết!

Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt càng nóng nảy:

 

- Hiểu là hiểu thế nào? Ðồng chí dám cãi lại cấp trên à? Không ra phía trước thì về phía sau! Chờ kỷ luật!

Nữ cứu thương Nhi lấy trong túi áo ra một mảnh giấy đưa cho Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt:

 

- Anh Dũng là anh trai cháu đấy. Ðây này, giấy thông hành của cháu đây, chú xem đi!

Ðại đội phó Trần Quốc Ðạt cầm giấy, soi đèn pin, đọc: “Ðỗ Thị Nhi, mười tám tuổi, làng Ðồng Uyên, Thái Ninh, Thái Bình”.

 

- Thế này là thế nào nhỉ?...

Từ nãy đến giờ, thương binh Dũng nằm đó đã nghe hết mọi chuyện. Anh nhổm dậy. Nữ cứu thương Nhi chạy bổ vào, quỳ trước mặt thương binh Dũng, hai tay cô đỡ lấy hai tay anh:

 

- Anh Dũng! Em là Nhi, Ðỗ Thị Nhi, con bố Tăng, mẹ Lệ đây. Ngày anh trốn đi, vì sợ Chánh Bật giết chết, bố mẹ và em phải trốn lên Hòa Bình rồi lên Sơn La. Bố ốm mất rồi anh ạ! Khổ thân bố!... Mẹ bây giờ già yếu rồi, vẫn ở Sơn La với bác Tiện để em đi dân công phục vụ chiến dịch. Ngay từ đầu khi nghe anh kể chuyện em đã nhận ra anh. Em không dám cho anh biết ngay, sợ anh quá xúc động vết thương lại nặng thêm. Nhỡ ra hỏng mắt thì khổ! Anh ơi! Ngày chiến thắng anh em mình sẽ về với mẹ. Chắc mẹ mừng lắm đấy anh ơi!

 

Hai anh em Dũng - Nhi ôm lấy nhau khóc nức nở...

 

Không gian bỗng bừng sáng. Mặt đất rung chuyển, chao đảo. Quả bộc phá nghìn cân trong lòng đồi A1 đã nổ. Tiếng súng đồng loạt nổ theo. Tiếng quân ta hò reo xung phong dậy đất. Cao điểm cuối cùng của giặc Pháp đã bị tiêu diệt, báo hiệu thất bại hoàn toàn của chúng ở Ðiện Biên Phủ. Tất cả thương binh trong hầm đều được dìu ra, nhìn về phía trước. Dũng cũng bảo em gái đưa anh ra ngoài. Chưa nhìn được bằng mắt, anh nghe bằng tai, cùng em gái và đồng đội tận hưởng niềm vui chiến thắng!

 

Lê Vũ

Thái Phúc, Thái Thụy

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày