Thứ 7, 14/06/2025, 23:08[GMT+7]

Thụy Dân Rộn rã làm nghề

Thứ 3, 04/11/2014 | 08:14:49
2,193 lượt xem
Thụy Dân là xã phát triển đa dạng ngành nghề của huyện Thái Thụy. Năm 2010, Thụy Dân đã được UBND tỉnh công nhận xã nghề với trên 75% số hộ tham gia làm nghề. Nhờ phát triển nghề, đến nay đời sống người dân ngày càng nâng cao, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.

Hoạt động trong các cơ sở rèn ở làng An Tiêm (xã Thụy Dân, Thái Thụy).

 

Ông Ðặng Xuân Ý, Chủ tịch UBND xã cho biết: Nghề phát triển nhất của địa phương là nghề rèn truyền thống làng An Tiêm, nghề mây tre làng An Dân. Ngoài ra, nghề may cũng phát triển mạnh khoảng 5 năm trở lại đây với 6 cơ sở sản xuất thu hút hàng trăm lao động. Tới nay số lao động có việc làm thường xuyên đã chiếm tới 98% tổng số lao động của làng nghề, trong đó 45% lao động đã qua đào tạo. Ðặc biệt, thu nhập bình quân người lao động làm nghề ở Thụy Dân khá cao, với nghề rèn đạt từ 5 - 6 triệu đồng/người/tháng, thêu ren, móc sợi đạt 1,5 - 2  triệu đồng/người/tháng, nghề may công nghiệp đạt bình quân 4 triệu đồng/người/tháng. Nhờ phát triển nghề nên thu nhập bình quân đầu người của Thụy Dân đạt 25,6 triệu đồng/người/năm, hộ nghèo chỉ còn 38 hộ, chiếm 2,52% so với tổng số hộ trong xã, giảm 3,4% so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế của xã vì thế cũng chuyển dịch tích cực. Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hiện đang chiếm 46%, dự kiến năm 2015 chiếm tới 51% trong cơ cấu kinh tế.

 

Ðược tận mắt chứng kiến người làng An Tiêm làm nghề chúng tôi mới thấy hết sự bận rộn của nghề rèn. Làng có dân số đông, chiếm 2/3 dân số của xã với 3.300 khẩu. Cả làng lúc nào cũng đông vui như trẩy hội, ngay từ thời điểm 4 giờ 30 đến 5 giờ sáng các lò rèn đã đỏ lửa sản xuất. Với 56 lò, mỗi lò có từ 15 - 20 lao động và trên 300 thợ rèn chính, đến nay nghề rèn đã trở thành nét đặc trưng của địa phương. Lợi thế của làng nghề này là sản xuất ra các sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp, đời sống dân sinh nên không lo đầu ra của sản phẩm và công tác bảo quản.

 

Ngoài việc xuất đi các tỉnh, thành phố trong cả nước, hàng ngày trong làng còn có từ 200 - 300 lao động chuyên đi bán sản phẩm của làng nghề trong các chợ trên địa bàn tỉnh. Theo các bậc cao tuổi trong làng kể lại, nghề rèn đã có cách đây 720 năm. Thời kỳ đất nước có chiến tranh, làng nghề này đã trở thành điểm tựa vững chắc cho bà con trong vùng và là nơi sản xuất vũ khí cho nhân dân đánh giặc như dao, mác, búa, liềm, dùi. Các thế hệ ngày nay đã không chỉ phát huy nghề truyền thống mà còn làm giàu từ nghề. Hơn chục năm qua người dân trong làng đã đầu tư hàng trăm triệu đồng mua máy móc thiết bị hiện đại, chuyển từ giai đoạn làm thủ công sang làm máy. Toàn làng hiện có 36 búa máy, 15 máy đột dập và hàng chục máy mài, máy đóng, máy tiện... Do đó sản phẩm không chỉ đẹp hơn mà công suất còn tăng gấp hàng chục, hàng trăm lần trước đó.

 

Anh Nguyễn Ðình Hưng là chủ của một lò rèn ở thôn An Tiêm 2 cho biết: Nghề rèn của chúng tôi rộn rã quanh năm, trong làng nhà ai cũng có người tham gia làm nghề. Bình quân mỗi ngày cơ sở của tôi sản xuất được 40 con dao, trên 100 liềm và hàng chục cuốc, xẻng. Nhờ có nghề rèn truyền thống mỗi năm gia đình tôi đạt doanh thu trên 1 tỷ đồng, trừ chi phí mỗi năm cũng thu lãi trên 200 triệu đồng. Không chỉ vậy, cơ sở của tôi còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 lao động với thu nhập bình quân 6 triệu đồng/người/tháng.

 

Cơ sở rèn của anh Ngô Thanh Quang, thôn An Tiêm 2 cũng là một minh chứng cho sự phát triển nghề. Hiện nay, cơ sở của anh không chỉ xuất hàng trong toàn quốc mà lượng hàng xuất khẩu sang các nước Lào, Campuchia, Malaysiaon>, Ả-rập Xê-út chiếm tới 40%. Tính bình quân, mỗi ngày cơ sở của anh sản xuất 3.000 con dao, hàng nghìn cuốc, liềm, xẻng; giải quyết việc làm cho 60 lao động với thu nhập bình quân 6 triệu đồng/người/tháng.

 

Ông Ðặng Xuân Thể là người chuyên đi chở nguyên liệu phục vụ cho hàng chục hộ làm rèn trong làng cho biết: Nguyên liệu làm nghề chủ yếu là từ sắt, thép, than, căn cứ vào lượng hàng hợp đồng mà các hộ nhập nguyên liệu khác nhau. Bình quân một lò trong làng tiêu thụ từ 15 - 20 tấn than, 20 - 30 tấn sắt, thép/năm. Chúng tôi đi mua những vật liệu này ở khắp các cơ sở buôn bán đồng nát phế liệu mang về cho các hộ. Ngoài ra còn tranh thủ đem hàng đi đổ cho một số cửa hàng ở trong và ngoài huyện và ở các chợ nên thu nhập không tháng nào dưới 20 triệu đồng.

 

Với kết quả đó, đến nay làng An Tiêm không còn hộ nghèo, tỷ lệ nhà mái bằng cao tầng chiếm tới 80%, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 30 triệu đồng/người/năm. Ngoài nghề rèn truyền thống, ở Thụy Dân còn phát triển mạnh nghề mây tre đan, móc sợi, may mặc. Ðiển hình như Cơ sở Mây tre đan Nguyễn Ðức Danh, thôn An Tiêm 1 du nhập nghề về từ 10 năm nay, tạo việc làm cho 100 lao động với thu nhập từ 1,5 - 2 triệu đồng/người/tháng, doanh thu đạt từ 1,2 - 1,5 tỷ đồng/năm. Cơ sở Móc sợi Ngô Xuân Luyến, thôn An Tiêm 3 tạo việc làm cho 200 lao động với thu nhập bình quân đạt 1,5 triệu đồng/người/tháng.

 

Có được kết quả trên, những năm qua Thụy Dân đã xác định duy trì nghề truyền thống, du nhập nghề mới là mục tiêu hàng đầu để nâng cao đời sống người dân. Từ năm 2010 Thụy Dân đã quy hoạch vùng tiểu thủ công nghiệp của xã rộng 12ha, trong đó đã thu hút 9 hộ thuê đất để làm nghề. Ngoài ra, xã đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo nghề, nhất là nghề mây tre đan, móc sợi tạo việc làm cho lực lượng lao động ở độ tuổi trung niên trong lúc nông nhàn. Tạo cơ chế thông thoáng hành lang pháp lý về mặt bằng, nguồn vốn cho các hộ phát triển nghề. Ðồng thời động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phát triển nghề, đưa nghề về địa phương.

  Thu Thủy

 

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày