Thứ 3, 16/12/2025, 04:49[GMT+7]

Dấu ấn nghề thủ công truyền thống

Thứ 3, 01/09/2015 | 08:32:56
1,690 lượt xem
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử song nghề thủ công truyền thống ở Thái Bình vẫn duy trì và phát triển. Trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nghề thủ công đã giữ vai trò quan trọng trong đời sống dân sinh và phục vụ đắc lực cho kháng chiến. Đến nay, nghề và làng nghề đã không ngừng mở rộng, phát triển du nhập nghề mới, đóng góp quan trọng vào giá trị tăng trưởng của ngành Công nghiệp tỉnh nhà.

Nghề thêu truyền thống xã Minh Lãng (Vũ Thư) tạo việc làm cho nhiều lao động.

Những nghề thủ công thời chiến

Theo sử sách ghi lại, mặc dù trải qua sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh song ở khắp các làng, xã trong tỉnh vẫn tồn tại và phát triển nghề như nghề làm muối, nước mắm ở các làng ven biển, chạm bạc (Đồng Xâm), dệt đũi (Nam Cao), dệt lụa (Bộ La, Mẹo), dệt chiếu (Hới), dệt khăn (Tiền Phong), nghề rèn, mộc, trồng dâu nuôi tằm... Để phát huy hiệu quả từ các nghề thủ công, tỉnh ta có chủ trương thành lập các tập đoàn sản xuất ngay trong thời chiến. Do đó mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng hầu hết các địa phương đều có tập đoàn sản xuất theo từng ngành nghề, thu hút khoảng 3.000 thợ thủ công như huyện Thụy Anh có tập đoàn may Trà Bồi, mộc, dệt, sửa chữa đồng hồ; huyện Thái Ninh có tập đoàn gốm, mộc, dệt, rèn; huyện Tiền Hải có tập đoàn rèn, dệt, may; huyện Duyên Hà có tập đoàn may Phố Thá... Ông Hà Văn Kết, nguyên Chủ tịch UBND xã Tân Lễ (Hưng Hà) cho biết: Nghề dệt chiếu Hới có từ hàng trăm năm nay xuất phát từ công lao của ông Phạm Đôn Lễ khi đi sứ Trung Quốc đã học được bí quyết kỹ thuật của nghề dệt chiếu rồi về truyền lại cho người dân trong làng. Trong thời kỳ chiến tranh, người làng Hới vừa tham gia đánh giặc vừa duy trì làm nghề. Ngày đó tất cả đều làm thủ công, bình quân mỗi hộ có một go dệt chiếu, mỗi go dệt được khoảng 5 lá chiếu đơn/ngày và được gánh đi bán ở khắp các tỉnh lân cận. Tới thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chiếu Hới đã được chọn để phục vụ cho lực lượng quân đội.

Đặc biệt, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, lực lượng công nhân trong các xưởng sản xuất vũ khí và lò rèn ở khắp các làng xã trong tỉnh đã khẩn trương rèn đúc nhiều loại vũ khí thô sơ, kịp thời cung cấp cho quân và dân du kích, đáp ứng một phần cho cuộc chiến đấu của dân quân tự vệ. Trong khi khó khăn về nguồn nguyên liệu, lực lượng công nhân, lao động thủ công đã phải đi thu gom hàng chục tấn gang, sắt, đồng, chì để chế tạo nòng súng. Nhiều công nhân đã lặn lội sang Nam Định đào ống nước, tháo đường ray, sang Ninh Bình kiếm than và còn dũng cảm tháo những quả bom nổ chậm để lấy thuốc sản xuất... Những dấu ấn đó đến nay vẫn còn in đậm trong tâm trí của các thế hệ người cao tuổi xã Thụy Dân (Thái Thụy). Một trong những lò rèn nổi tiếng thời đó là lò rèn của cụ Trịnh Nhương, thôn An Tiêm. Cụ Nhương kể lại: Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong làng có gần 10 lò rèn vừa sản xuất các loại dụng cụ phục vụ đời sống dân sinh vừa là trung tâm sản xuất vũ khí phục vụ cho dân quân du kích trong vùng. Người dân trong làng đã tự chế tạo ra nhiều vũ khí để đánh giặc như dao, kiếm, mã tấu, súng kíp. Lò rèn của cụ đã chế tạo ra hàng nghìn vũ khí và đặc biệt đã thành công trong việc chế tạo súng để đánh đuổi giặc Pháp.

Nghề chạm bạc tạo việc làm cho 3.000 lao động của huyện Kiến Xương.

Khi làng nghề "cất cánh"

Tới khi đất nước thống nhất, các HTX thủ công được phát triển theo quy mô lớn, nhiều làng nghề truyền thống như dệt, thêu, đúc, rèn, chạm bạc được khôi phục. Các sản phẩm của làng nghề đã nhanh chóng chuyển từ thủ công sang trang bị thiết bị máy móc hiện đại, không chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Điển hình như nghề dệt khăn, bình quân mỗi năm các làng nghề sản xuất ra hàng trăm triệu khăn các loại, giải quyết việc làm cho trên 30.000 lao động và nhiều làng nghề đã có thị trường xuất khẩu ổn định sang được thị trường các nước Nhật Bản, Hàn Quốc... Đặc biệt, ở một số làng nghề có cách đây gần 700 năm như nghề chạm bạc đến nay vẫn phát triển tạo việc làm thường xuyên cho trên 3.000 lao động có thu nhập ổn định, giá trị sản xuất hàng năm đạt khoảng 120 tỷ đồng. Theo đánh giá của nghệ nhân Nguyễn Văn Ngoan, xã Hồng Thái (Kiến Xương), trải qua biết bao thời kỳ biến động của đất nước nhưng nghề chạm bạc Đồng Xâm không ngừng phát triển. Ngay trong thời kỳ đói khổ nhất của những năm 1945, trong làng vẫn thành lập các tổ sản xuất theo gia đình để sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu. Đặc biệt, chính người Pháp đã dùng các sản phẩm bạc của Đồng Xâm để xuất khẩu sang các nước Đông Tây Âu nên mặt hàng của địa phương đã có mặt ở Pháp, Anh ngay từ thời Pháp thuộc.

Cùng với các nghề truyền thống, các xã trên địa bàn tỉnh còn tích cực du nhập nghề mới như đan móc sợi, làm hương, dệt lưới nilon, chiếu nilon, dệt khăn xuất khẩu... Nổi bật nhất là huyện Hưng Hà dẫn đầu tỉnh về phát triển nghề với 4 xã nghề và 51 làng nghề, tổng có 5.396 máy dệt khăn thủ công, 151 máy dệt khăn công nghiệp, 350 máy dệt chiếu công nghiệp... thu hút trên 67.000 lao động địa phương. Trong đó, nghề dệt chiếu giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động với mức thu nhập ổn định từ 2 triệu đồng/người/tháng trở lên. Đặc biệt, nghề dệt chiếu nilon, lưới nilon đã phát triển mạnh ở địa bàn các xã Văn Cẩm, thị trấn Hưng Nhân, Tân Lễ và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.

Sự phát triển nghề và làng nghề không chỉ giải quyết việc làm cho khoảng 150.000 lao động ở khu vực nông thôn trong tỉnh mà còn góp phần làm cho đời sống người lao động được nâng lên đáng kể với thu nhập bình quân đạt từ 2 - 2,5 triệu đồng/người/tháng. Kết quả đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực, diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới.

Thu Thủy

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày