Thứ 4, 17/12/2025, 19:07[GMT+7]

Mai một đúc đồng Hội Khê

Thứ 4, 17/02/2016 | 08:36:06
2,378 lượt xem
Nhiều năm trước, phường thợ Hội Khê (xã Vũ Hội, Vũ Thư) nổi tiếng bởi nghề đúc đồng truyền thống. Các sản phẩm đúc đồng của phường thợ Hội Khê có mặt ở nhiều công trình uy nghiêm, ý nghĩa của tỉnh, huyện. Thế nhưng, qua thời gian, nghề này dần mai một, thậm chí thất truyền. Đúc đồng truyền thống hiện chỉ còn trong trí nhớ của thợ làm nghề.

Ông Bùi Văn Nham và chiếc đỉnh đồng cuối cùng do chính tay ông đúc.

Nâng niu, ngắm nghía bộ đỉnh đồng với nước đồng nâu đen, bóng mịn, trang trí các chi tiết hoa văn tinh xảo, ông Bùi Văn Nham, 83 tuổi, ở thôn Hiếu Thiện, xã Vũ Hội chia sẻ: Đây là bộ đỉnh do chính tay tôi đúc và cũng là bộ cuối cùng gia đình tôi còn giữ được. Nhiều người cất công tìm đến, ngỏ ý mua nhưng tôi từ chối vì muốn giữ lại kỷ vật về nghề đúc đồng gia truyền của tổ tiên - cái nghề đã từng gắn bó với tôi gần trọn cuộc đời.

Ông Nham cho biết, lâu nay, người dân xa gần biết đến nghề đúc đồng ở phường thợ Hội Khê nhưng thực ra cả huyện Thư Trì ngày ấy, Vũ Thư bây giờ chỉ có gia đình ông biết nghề và làm nghề đúc đồng. Thời xa xưa, các cụ tổ tiên của gia đình ông vốn người gốc xứ Thanh, khi đến đất Vũ Hội lập nghiệp đã mang theo nghề đúc đồng gia truyền. Đời trước truyền đời sau, các cụ, ông, cha của ông Nham rồi đến ông đều say mê, gắn bó với nghề này. Ông bảo, nghề đúc đồng kén thợ lắm, phải là người khéo léo, có tâm hồn bay bổng, sáng tạo, lại phải có sức khỏe và kiên trì, cẩn thận mới làm được. Nếu đúc nhôm bà con ở đây thường làm là đúc ra các sản phẩm xoong, nồi, ấm, chảo để sử dụng thì nghề đúc đồng của gia đình ông lại tạo ra các sản phẩm mang tính nghệ thuật nhiều hơn, hầu hết là các đồ tế khí như lư hương, đỉnh, chuông, long câu, xà mâu, chấp kích… Gọi là đúc đồng mà thực chất không phải đúc đồng, bởi nếu để đồng nguyên chất thì chất đồng dẻo, nước đồng xấu, không thể làm ra các sản phẩm bóng đẹp hay đặc thù như âm thanh giòn giã, vang mà trong trẻo của quả chuông. Bí quyết ở đây chính là cách pha chế đồng với nhiều chất liệu khác để tạo thành hợp kim và tùy thuộc vào mỗi sản phẩm mà thợ đúc đồng có cách pha chế với tỷ lệ khác nhau. Tạo được chất liệu đúc, người thợ còn phải tính chuyện làm khuôn. Đất để đắp khuôn phải là đất thó, đất sét và cũng được thợ đúc pha chế tỷ mỷ với các chất liệu khác để khuôn không bị co giãn, nứt nẻ khi nung. Đối với đúc đồng, đắp khuôn đúc chính là tạo hồn cho sản phẩm, thợ đúc phải tạo hình, tạo dáng ngay từ phôi đất để sau khi đổ nguyên liệu vào nung từng chi tiết nhỏ như mắt, răng, vây tóc của con rồng, sư tử… nét nào ra nét ấy mà vẫn uyển chuyển, có hồn. Ngoài đôi bàn tay khéo léo, người thợ đúc đồng còn phải có óc quan sát, sáng tạo, chỉ cần nhìn một lượt mẫu là có thể đúc sản phẩm đẹp và giống y như người đặt yêu cầu, hoặc cũng có khi tự sáng tạo ra các mẫu mã sản phẩm tinh xảo, điêu luyện. Trong quá trình đúc, lò đúc luôn ở nhiệt độ gần 1.0000C nung chảy nguyên liệu nhưng khi có không khí vào, hợp kim lập tức sẽ bị khô cứng. Do đó, thợ đúc còn phải có kinh nghiệm và nhanh tay, nếu không sản phẩm sẽ dễ dàng bị lỗi. Sau công đoạn đúc, thợ đánh bóng, mài dũa hoàn thiện để nổi bật nước đồng đen bóng mịn, các chi tiết sắc nét, sinh động.

Bễ thổi gió phục vụ đúc đồng của phường thợ Hội Khê được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.

Nghề đúc đồng của gia đình ông Nham cũng từng trải qua nhiều thăng trầm, lúc thịnh lúc suy. Thời kỳ đất nước có chiến tranh, đồng và các nguyên liệu khan hiếm nên chỉ ưu tiên sản xuất các mặt hàng thiết yếu. Say nghề, gia đình ông Nham thỉnh thoảng mới dành dụm, đúc "vụng" một số đồ tế khí để chơi hoặc tặng những người đam mê đồ đồng. Khó khăn nhất là thời kỳ các nhà chùa bị phá bỏ hàng loạt, nhiều tế khí là đồ đồng trong các chùa bị vứt bỏ, người dân cũng không mua đồ đúc đồng, gia đình ông Nham phải chuyển sang đúc nhôm để kiếm kế sinh nhai nhưng ông vẫn đau đáu với nghề. Những năm 1980 trở đi, nghề đúc đồng thịnh hành trở lại, ông Nham lại say sưa với lò đúc, với từng sản phẩm ông trực tiếp làm ra. Ông cũng không nhớ mình đã đúc bao nhiêu sản phẩm nữa, chỉ nhớ đồ đồng Vũ Hội cũng đã từng nức tiếng một thời và có những đồ đúc từng gắn với bao tâm huyết của ông như hình Quốc huy của đất nước treo ở Nhà văn hóa huyện…

Bễ thổi gió phục vụ đúc đồng của phường thợ Hội Khê được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.

Hơn chục năm nay, do tuổi già, sức yếu nên ông Nham đã nghỉ làm nghề. Ông bảo, nghề này chẳng làm ông giàu nhưng là nghề gia truyền nên ông luôn trân trọng, say nghề và mong muốn gìn giữ nghề của cha ông để lại. Vì vậy, nhiều năm trước, ông đã sớm lựa chọn kỹ một trong số ba người con trai của mình để dạy, truyền nghề đúc đồng nhưng người con này phận mỏng bỏ đi sớm. Ông cũng vận động các con em khác nhưng người không có hoa tay, người không say nghề nên đến nay, ngoài ông, gia đình không còn ai biết đúc đồng nữa. Bộ dụng cụ, đồ đúc đồng của gia đình ông giờ chỉ còn là hiện vật được lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh. Ông Nham chia sẻ, nhiều thợ dày dạn kinh nghiệm ở tận các làng nghề đúc đồng trong cả nước vẫn lặn lội tìm đến ông học hỏi, còn con cháu trong gia đình, con em quê hương lại không mặn mà với nghề này. Cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ, những nghề truyền thống như đúc đồng bây giờ không còn thu hút nhiều người, một mình ông không thể giữ nghề… Đau đáu một nỗi niềm với nghề tổ tiên để lại, ông Nham vẫn mong mình có cơ hội để truyền nghề cho lớp trẻ để nghề đúc đồng của phường thợ Hội Khê nổi tiếng một thời không bị mai một và thất truyền.

Quỳnh Lưu

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày