Thứ 5, 05/06/2025, 11:23[GMT+7]

Chuyển dịch lao động trong làng nghề

Thứ 4, 30/11/2016 | 07:54:09
827 lượt xem
Theo đánh giá của Sở Công Thương, làng nghề Phương La ngày càng phát triển do có hàng chục doanh nghiệp trong làng nghề lo từ nguyên liệu đầu vào tới bao tiêu đầu ra sản phẩm. Công nhân làm tại chỗ không chỉ được hưởng lợi về thu nhập, môi trường lao động mà còn được hưởng đầy đủ chế độ của người lao động, số lao động vệ tinh chỉ việc lấy nguyên liệu về làm gia công, không phải lo về nguyên liệu, đầu ra sản phẩm.

Nghề dệt khăn ở Phương La tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động.

 

Một trong những vấn đề nổi cộm trong các làng nghề truyền thống hiện nay là sự chuyển dịch về lao động. Hầu hết các làng nghề truyền thống đều bị suy giảm, trong đó một phần nguyên nhân là do không có nguồn lao động. Song đây cũng là tín hiệu vui bởi nguồn lao động trẻ đã chuyển vào làm trong các doanh nghiệp, các khu, cụm công nghiệp tập trung ở các địa phương. Sự chuyển dịch theo hướng tích cực này đã đem lại thu nhập cao và ổn định hơn cho người lao động.

Hiện nay, toàn tỉnh có 247 làng nghề đã được công nhận nhưng trên thực tế nhiều làng nghề hiện không đạt tiêu chí về số lao động làm nghề. Nhiều làng nghề truyền thống bị suy giảm do sự phát triển của các doanh nghiệp trong làng nghề và các khu, cụm công nghiệp ngày càng lớn. Ðặc biệt, nghề may công nghiệp đã có mặt ở hầu hết các xã, thị trấn nên đã thu hút nguồn lao động trẻ vào làm, nhất là từ khi tỉnh có chủ trương đưa doanh nghiệp may phát triển về vùng nông thôn, tạo việc làm cho người dân theo phương châm “Ly nông không ly hương”. Vì thế, lao động trong nghề may công nghiệp chiếm hơn 60% tổng số lao động công nghiệp trong toàn tỉnh với thu nhập bình quân đạt khoảng 3,5 triệu đồng/người/tháng. Hơn nữa, nhận thức của người dân ngày một chuyển biến, nếu như trước đây họ sống chủ yếu bằng nghề truyền thống, làm thủ công thì nay lại thích làm công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp có thu nhập khá, công việc ổn định, được hưởng chế độ, chính sách dành cho người lao động. Do đó, lao động trong làng nghề chỉ còn người già, người trung tuổi hoặc các cháu chưa đến tuổi lao động. Ðiển hình như nghề dệt chiếu cói trước đây phát triển mạnh ở các huyện Ðông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động mỗi địa phương. Ở các xã như Tân Lễ, Ðông Hà, Ðông Giang, An Vũ, An Dục, An Tràng..., hầu hết hộ nào cũng có khung dệt chiếu. Nhưng từ khi các cơ sở sản xuất mạnh dạn đầu tư vốn nhập thiết bị máy móc hiện đại, sản lượng chiếu đã tăng lên gấp hàng chục lần so với làm thủ công, trong khi đầu ra sản phẩm bị thu hẹp dần nên số lượng lao động tham gia làm nghề giảm hẳn. Hơn nữa, nguồn nguyên liệu làm chiếu cói ngày càng khan hiếm, giá cao trong khi giá sản phẩm lại không tăng, do đó mặt hàng chiếu cói đã bị thu hẹp về cả số lượng lao động và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một số địa phương đã nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thị trường, mạnh dạn đầu tư máy móc chuyển từ dệt chiếu cói sang dệt chiếu nilon đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ðiển hình như ở xã Tân Lễ (Hưng Hà), nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã đầu tư hàng chục tỷ đồng mua sắm máy dệt chiếu nilon xuất bán cho thị trường trong cả nước, doanh thu mỗi năm đạt hàng trăm tỷ đồng. Hay như nghề thêu ở xã Minh Lãng (Vũ Thư) trước đây thường có từ 4.000 - 5.000 tay kim hoạt động nhưng nay chỉ còn vài doanh nghiệp duy trì nghề, số còn lại chuyển sang nghề may. Một số nghề truyền thống khác trước đây cũng rất phát triển nhưng đến nay cũng chững lại hoặc suy giảm như nghề mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ...

Tuy nhiên, không phải nghề truyền thống nào cũng mai một và thu hẹp về nguồn lao động bởi có những làng nghề ở bất kỳ thời điểm nào người dân cũng sống được bằng nghề. Ðiển hình nhất là nghề dệt khăn ở Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà) đến nay vẫn giữ được tốc độ phát triển mạnh cả về doanh thu, sản lượng, thị trường tiêu thụ, số lượng lao động làm nghề và thu nhập của người lao động. Theo đánh giá của Sở Công Thương, làng nghề Phương La ngày càng phát triển do có hàng chục doanh nghiệp trong làng nghề lo từ nguyên liệu đầu vào tới bao tiêu đầu ra sản phẩm. Công nhân làm tại chỗ không chỉ được hưởng lợi về thu nhập, môi trường lao động mà còn được hưởng đầy đủ chế độ của người lao động, số lao động vệ tinh chỉ việc lấy nguyên liệu về làm gia công, không phải lo về nguyên liệu, đầu ra sản phẩm. Trong khi đó, thu nhập của lao động làm tại chỗ bình quân từ 3 triệu đồng/người/tháng trở lên, lao động làm gia công đạt từ 5 - 7 triệu đồng/tháng trở lên.

Như vậy, mặc dù có sự chuyển dịch lớn về lao động trong làng nghề song đời sống của người dân lại không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, song song với việc phát triển đa dạng các ngành nghề nhằm tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người dân thì cũng rất cần duy trì, bảo tồn và phát triển nghề truyền thống. Ðơn cử như nghề chạm bạc Ðồng Xâm cần xây dựng phương án bảo tồn, phát triển, xây dựng thương hiệu, khu trưng bày và giới thiệu sản phẩm, đào tạo và truyền nghề cho thế hệ sau. Ngoài ra còn cần có cơ chế hỗ trợ máy móc, thiết bị để cơ giới hóa một số công đoạn làm thủ công nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho nghề và làng nghề phát triển. Có như thế mới giữ vững, phát huy được nghề truyền thống.

                         Thu Thủy

 

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày