Thứ 2, 09/06/2025, 03:38[GMT+7]

Giới thiệu sách Văn hóa làng ở Thái Bình

Thứ 2, 01/11/2010 | 10:46:09
6,701 lượt xem
Nhân dịp tổng kết 10 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” (2000-2010), Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã xuất bản sách “Văn hoá làng ở Thái Bình” của hai tác giả Phạm Minh Đức và Phạm Hoá. Sách dầy gần 300 trang khổ 14,5 x 20,5 cm. Văn hoá làng ở Thái Bình giới thiệu với bạn đọc 33 làng ở tất cả 8 huyện và thành phố. Theo các tác giả thì đây là những làng nổi tiếng không những ở Thái Bình mà cả trong nước (cũng chưa phải là con số cuối cùng, các t

Tập sách Văn hoá làng ở Thái Bình

Mở đầu sách, trong lời giới thiệu khái niệm về làng và văn hoá làng, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã làm rõ “Làng là một cộng đồng dân cư được hình thành trong quá tình lịch sử lâu dài, cùng khắc phục thiên tai, chống lại mọi thế lực thù địch. Khi đã hình thành nên quốc gia, dân tộc, làng vẫn tồn tại và phát triển bản sắc của mình.

Từ cái cơ sở làng mà chúng ta có được những phong tục tập quán, những thiết chế và những công trình công cộng. Làng có cái riêng của làng, từng cái riêng ấy thành cái chung của cả nước. Từ khi có làng mọi thế hệ đều gắn bó với làng và dù dưới triều đại nào, dù bọn xâm lược đến nước này là người Á hay người Âu, dù theo văn minh Đông hay Tây, cái làng của chúng ta vẫn kiên cường, tồn tại”.

Từ nhận thức về làng và văn hoá làng qua các làng được giới thiệu, các tác giả đã tập trung làm rõ 3 nội dung lớn:
1. Bề dày lịch sử của làng
2. Truyền thống văn hiến của làng
3. Làng trong cuộc sống hiện nay

Qua sách, các tác giả đã nêu rõ làng ở Thái Bình ra đời sớm muộn khác nhau, có làng ra đời từ đầu công nguyên như làng Bệ, Làng Tô (An Bài, An Mỹ Quỳnh Phụ); có làng ra đời vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất là căn cứ dấy nghĩa của vua Tiền Lý Nam Đế (544-548) như làng An Để (Vũ Thư), Quang Lang (Thái Thụy)... Phần đông các làng được lập vào thế kỷ thứ IX, thứ X. Vào thời Lý-Trần (1010-1400), nhiều làng quê ở Thái Bình đã trù phú, đồng ruộng Thái Bình đã thành “bờ xôi, ruộng mật”. Làng An Để (nay thuộc xã Hiệp Hoà- Vũ Thư) có chùa ông Lâu, biển đề là chùa Phúc Minh, phía nam có con đường lớn người đi lại không ngớt, phía Bắc một dòng sông chảy hoài vô tận, không ngừng...” Làng Tô Xuyên (An Mỹ, Quỳnh Phụ) được miêu tả: “ở huyện Đa Dưc, có trang Tô Xuyên, nước non gò đảo đẹp như núi tiên. Lâu đài đẹp đẽ, cổ kính, làng mạc, đồng ruộng như một dải lụa”.

Với truyền thống hàng ngàn năm, các làng đã xây dựng nên những công trình công cộng, những thiết chế tín ngưỡng đình, chùa, đền, miếu là những công trình văn hoá vật chất... Làng Keo với chùa Keo, một “danh thắng bậc nhất từ Bắc chí Nam”. Làng Ngoại Lãng có chùa Quan Lãng (xem sáng), đài Văn Lãng (nghe sóng), chùa Bạch Nhã, đền, chùa Phúc Thắng, đền Cầu Vưỡng...Làng Nghìn (Đông Linh) tự hào là vùng “địa linh nhân kiệt” có 3 dải đất lớn nổi lên như kình, bút án ngữ... có đình, chùa, văn từ, văn chỉ, cùng 6 đền, miếu...; có hệ thống bia đá, có bia “cư nhân đình bi ký” ghi về lịch sử ngôi đình và lịch sử hình thành, phát triển của làng. Có bia “Duệ hiệu tiên hiền bi ký” ghi về 27 đại khoa và 118 ông tú, ông cử của huyện Phụ Dực xưa...

Làng Đức Hiệp (Hiệp Hoà - Vũ Thư) có sông uốn khúc, có  gò đống cao như núi, có đền miếu linh thiêng, người xưa từng ghi.
“Cửu khúc, tam thai sơn thuỷ hữu tình chung phúc địa
Thiên niên vạn đại, tử tôn tương kế bảo linh tữ”.
(Nghĩa là cảnh làng Đức Hiệp thật đẹp: có 9 dòng chảy, có ba gò cao, nước và núi làm rung động lòng người, đây là đất phát phúc của làng. Cảnh sông nước, đồng ruộng, gò đống còn mãi mãi để con cháu hưởng phúc, nên con cháu biết bảo vệ, giữ gìn).

Nét nổi bật của văn hoá làng qua sách “Văn hoá làng ở Thái Bình” là những biểu hiện của văn hoá phi vật thể: Truyền thống yêu nước đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp bức, từ chống giặc Hán thời Hai Bà Trưng ở làng Hưng, chống giặc Lương thế kỷ thứ VI ở làng An Để, Cổ Trai, chống giặc Mông Nguyên, giặc Minh vào thời Trần Lê ở Tam Đường, Đông Linh, Tò Hương... Truyền thống hiếu học, học giỏi đỗ cao ở các làng Ngoại Lãng (Vũ Thư), Phúc Khê (Thái Thuỵ), Đông Linh An Bài, An Mỹ (Quỳnh Phụ).

Văn hoá làng còn được thể hiện ở nếp sống của làng. Nhớ ơn, tôn thờ những người có công với làng với nước. Sống thân ái đoàn kết, đùm bọc thương yêu nhau: “Trọng đức, quý hoà như nước uống, cơm ăn, làng xóm bình yên chỉ có tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng ca” và “khi trong xóm làng, bất cứ lúc nào có việc cần tương trợ, tương bảo, tương cứu, ta cần tổ chức cứu giúp ngay”.

Văn hoá làng còn được kết tinh trong các hội làng, trong các làng nổi tiếng về nghệ thuật chèo (làng Khuốc), nghệ thuật múa rối nước (làng Nguyễn, làng Đống), nghệ thuật múa giáo cờ, giáo quạt (làng Thượng Liệt), múa kéo chữ (Làng La Vân)... Các làng nổi tiếng về nghề: Làng Đồng Xâm với nghề chạm bạc, làng An Tiêm với nghề rèn, làng Thuận Vi với nghề trồng dâu nuôi tằm, trồng, nuôi sinh vật cảnh. Văn hoá làng không chỉ thể hiện ở những giá trị vật chất, tinh thần mà còn thể hiện ở những người hiền tài của làng.

Hầu hết các làng được giới thiệu đều có những con người tiêu biểu sinh ra ở làng đem tài năng cống hiến cho nước làm nổi danh cho làng. Làng Đồng Thanh suốt chiều dài lịch sử hơn 1000 năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều có những người nổi tiếng. Làng Trình Phố với Nguyễn Quang Bích, Bùi Viện, làng Bơn trong thời kỳ đổi mới đã xuất hiện tới ba anh hùng lao động.

Trong phong trào xây dựng làng văn hoá từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” từ năm 2000, các làng có bề dày lịch sử văn hoá đã thấy trách nhiệm thực hiện lời căn dặn của tổ tiên: Người làng Trình Phố biết:
“Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích học kế gia phong”

Người làng Cọi (Vũ Hội) luôn nhớ “Từ muôn đời nay muốn phục hưng đất nước, quê hương, một nửa nhờ khí thiêng sông núi, một nửa tại sức người”. Người làng Nghìn biết rằng những truyền thống, những di sản văn hoá quý hiếm mà ông cha đã dày công xây dựng, còn hay mất, phát triển lên tầm cao mới hay không là nhờ con cháu...

Vì vậy, các làng văn hiến xưa đều là những làng văn hoá ngày nay. Làng vẫn là niềm tự hào, vẫn là nỗi nhớ, tình yêu thương gắn bó của bao thế hệ.

Sách “ Văn hoá làng ở Thái Bình” giới thiệu chưa nhiều, in chưa đẹp, nhưng đã giúp người đọc thấy được khối lượng đồ sộ những giá trị văn hoá làng ở Thái Bình.

Phạm Thị Hồng Hạnh
                       (Thành phố)

 

  • Từ khóa