Chủ nhật, 19/05/2024, 01:45[GMT+7]

Gian nan nước sạch về làng (Kỳ 2)

Thứ 6, 15/12/2017 | 09:08:42
1,292 lượt xem
Không phải địa phương nào, người dân nào ở Hưng Hà cũng hiểu và nhận thức rõ lợi ích của việc sử dụng nước sạch, đồng thời có quyết định đấu nối, sử dụng nước sạch. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp triển khai dự án công trình nước sạch trên địa bàn cũng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đã góp phần làm cho tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch ở địa phương đạt thấp.

Lắp đồng hồ, đường ống cấp nước đến hộ dân xã Phúc Khánh (Hưng Hà).

Kỳ 2: Nhiều khó khăn cần tháo gỡ

Theo lãnh đạo xã Tiến Đức (Hưng Hà), từ đầu năm 2016, địa phương đã ký hợp đồng với nhà máy nước sạch Long Hưng (Doanh nghiệp tư nhân Xuân Lan) tiến hành lắp đặt đường ống, đấu nối, sử dụng nước sạch đến các hộ dân. Cùng với sự vào cuộc tuyên truyền, vận động của cấp ủy, chính quyền địa phương, nhà máy còn có chính sách hỗ trợ gia đình chính sách và các hộ dân khác như giảm giá lắp đặt đấu nối, hỗ trợ bằng hình thức trả góp... Tuy nhiên, tính đến cuối tháng 11/2017, tỷ lệ hộ dân trong xã đấu nối, sử dụng nước sạch mới đạt 30,76%. Theo nhiều người dân ở đây, vấn đề chất lượng nước, áp lực nước cũng như kinh phí bỏ ra ban đầu khiến họ còn e dè. Mặt khác, trước đây nhiều hộ dân đã đầu tư xây dựng hệ thống lọc nước giếng khoan, nước mưa nên chưa muốn chuyển sang sử dụng nước của nhà máy.

Xã Tân Tiến (Hưng Hà) nằm trong phạm vi cung cấp nước của nhà máy nước sạch Tân Tiến do Công ty Cổ phần Nước sạch Hưng Hà đầu tư xây dựng từ tháng 7/2016. Đến cuối tháng 11/2017 toàn xã mới có tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch đạt 20,92%. 

Theo lãnh đạo địa phương, trong quá trình xây dựng, xã luôn tạo điều kiện cho Công ty về mặt bằng, đồng thời tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân sử dụng nước, bảo đảm điều kiện an ninh giúp nhà máy bảo đảm tiến độ dự án. Tuy nhiên, trong quá trình thi công lắp đặt đường ống, phía nhà máy thiếu sự liên kết chặt chẽ với địa phương. Việc hoàn trả mặt bằng sau khi thi công còn hạn chế nên chưa tạo được sự đồng thuận cũng như niềm tin đối với nhân dân. Hơn thế, cũng trong tháng 7/2017, nhà máy đã ngừng cung ứng nước cho các hộ dân. Việc này đã làm ảnh hưởng đến đời sống của các hộ dân và gây khó khăn cho việc tuyên truyền, vận động các hộ dân còn lại đấu nối, sử dụng nước sạch.

Ông Bùi Trọng Đơ, Chủ tịch UBND xã Phúc Khánh (Hưng Hà) chia sẻ: Địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhà máy đầu tư xây dựng hệ thống đường ống. Đồng thời, tăng cường vận động, khuyến khích nhân dân sử dụng nước sạch thay thế nước giếng khoan và nước mưa. Tuy nhiên, đến cuối tháng 11/2017 tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch mới đạt 30,76%. Một số hộ dân còn chưa tin tưởng chất lượng nước được cung ứng và còn băn khoăn về giá đóng góp ban đầu. Nhiều hộ đã đầu tư khoan giếng và hệ thống xử lý nước giếng khoan khá cao nên còn tư tưởng muốn tận dụng công trình đã đầu tư.

Tại những cuộc họp về vấn đề nước sạch của huyện Hưng Hà thời gian qua, lãnh đạo huyện và lãnh đạo các địa phương cũng đã chỉ ra những hạn chế  và phản ánh những băn khoăn của nhân dân đến doanh nghiệp đầu tư để sớm khắc phục. 

Theo ông Phạm Văn Bình, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện: Những băn khăn của người dân chủ yếu là về chất lượng, áp lực nước, giá nước, việc hoàn trả mặt bằng đường giao thông sau khi doanh nghiệp thi công lắp đặt đường ống dẫn nước, giá đồng hồ cũng như việc hỗ trợ kinh phí đấu nối cho người dân... Trước thực trạng trên, đến ngày 23/11/2017, tại 18 xã, thị trấn của huyện Hưng Hà có dự án hoàn thành, tổng số hộ sử dụng nước sạch là 25.829 hộ, đạt tỷ lệ 62,32%. Còn đối với 17 xã phía Bắc và Đông Bắc của huyện nằm trong phạm vi cung ứng của Công ty Cổ phần Nước sạch Hưng Hà, do việc dừng hoạt động thời gian qua nên tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch vẫn chỉ dừng ở con số 4,3%.



Ông Đặng Xuân Cường, Phó Bí thư Đảng ủy xã Tiến Đức (Hưng Hà)

Nguyên nhân chính khiến tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch thấp chủ yếu do nhận thức của nhân dân trong sử dụng nước sạch chưa cao. Nhiều hộ dân còn băn khoăn về kinh phí đóng góp, còn “tiếc” những công trình nước sạch đã đầu tư trước đây. Bên cạnh đó, việc thực hiện công khai 5 nguyên tắc về công nghệ xử lý nước, quản lý, vận hành, bảo dưỡng nhà máy nước, kiểm tra, đánh giá chất lượng nước định kỳ và công khai giá bán nước xuống từng xã để người dân yên tâm đấu nối, sử dụng nước đôi khi chưa được doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Do đó cần khắc phục sớm những hạn chế trên để tạo niềm tin của nhân dân, góp phần tăng tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch.

Ông Bùi Xuân Tấu, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Xuân Lan

Công ty chúng tôi đã đầu tư hơn 80 tỷ đồng để xây dựng nhà máy nước sạch với công suất 22.000m3/ngày đêm, cấp nước cho 7 xã phía Tây, Tây Nam của huyện Hưng Hà. Đến tháng 10/2017, 100% đường ống dịch vụ đến ngõ của các hộ dân đã lắp đặt xong. Hiện nay, tỷ lệ hộ dân đấu nối, sử dụng nước sạch của nhà máy mới đạt 44,8%. Phần lớn các hộ dân chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dùng nước sạch trong sinh hoạt, bên cạnh đó họ cũng còn e ngại vì khoản kinh phí bỏ ra đầu tư ban đầu. Chúng tôi mong chính quyền các địa phương vào cuộc hơn nữa để cùng doanh nghiệp tuyên truyền, vận động nhân dân đấu nối, sử dụng nước sạch.  


(còn nữa)

Mai Thư