Chủ nhật, 17/11/2024, 11:20[GMT+7]

MỄ THƯƠNG VÀ TRẬN CHIẾN BÊN SÔNG KỲ I: THẾ TRẬN LÒNG DÂN

Thứ 7, 11/09/2010 | 17:50:41
2,876 lượt xem
Trong dân gian còn lưu truyền câu ca: "Tháng Tám giỗ Cha..." ấy là để nhắc nhở hậu thế luôn nhớ về ngày mất của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn vào mùa thu tháng tám (âm lịch) ngày 20 năm Canh Tý (1300). Đó là thời khắc "Bình Bắc Đại nguyên soái" Hưng Đạo Đại Vương qua đời. Sau khi Ông mất, vua Trần Anh Tông truy tặng: Thái sư Thượng Phụ Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Tượng Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương tại Đền thờ Ngài ở Thôn Vũ Hạ - xã An Vũ - huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình. Ảnh: Quang Viện

Nhân dân ta lập đền thờ ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Đại Vương và suy tôn Ngài là Đức Thánh Trần. Với nhân dân Thái Bình, đặc biệt là nhân dân xã An Đồng, An Thái còn ghi nhớ mãi kỷ niệm "Bến Tượng", vì đó không chỉ là niềm tự hào bởi thế trận - lòng dân thành công mà đó còn là tấm lòng cảm kích của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với nhân dân nơi đây khi voi chiến của Ngài sa lầy, Ngài đã rút gươm chỉ xuống dòng sông mà thề rằng: "Nếu không thắng trận ta sẽ không trở lại bến sông này nữa".

Đền Gạo, thôn A Sào xã An Thái huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, nơi xưa là kho gạo của quân đội Nhà Trần, do Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy.

 

Thuở ấy, Vương triều Trần mà tiêu biểu là Trần Hưng Đạo, vị quốc công tiết chế có nhiều công lao to lớn với dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông oai hùng đã đi vào lịch sử, đi vào thế giới huyền thoại trở thành vị "Thánh" được toàn thể nhân dân trên khắp dải đất hình chữ S thờ phụng.

 

Trong lịch sử cổ đại, hơn bảy trăm năm trước có ghi rằng: lúc đó thế giới đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm  vì giặc Tác-ta (Đế quốc Nguyên - Mông) hung bạo lướt vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước khác. Nhưng, khi chúng đặt chân đến miền đất Đại Việt với ngút ngàn bờ bãi dâu xanh, muôn dân hiền lành chất phác, ngẫm tưởng nuốt trôi đất nước nhỏ bé bên bờ biển xanh thỏa mộng bá vương với mùi hôi nồng nặc của đội quân kỵ mã, thì ngay lập tức lũ giặc Tác-ta ấy đã phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đến nỗi, Trấn Nam vương Thoát Hoan phải chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.

Đình làng Vũ Hạ xã An Vũ huyện Quỳnh Phụ, nơi phối thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương, tưởng nhớ một thời vùng đất Ngài đã chọn làm Đại bản doanh.

 

Vốn được dạy dỗ cẩn trọng từ nhỏ nên Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với tài đức thông minh sẵn có hơn người, xem rộng biết nhiều, văn võ song toàn, chuyên tâm nghiên cứu lục thao tam lược của người xưa, dành cả tâm huyết và hiểu biết để viết các tác phẩm: Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư và Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt. Năm 1258, quân Nguyên - Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, Ông được cử chỉ huy các tướng lĩnh điều quân thuỷ bộ bảo vệ vùng biên giới Tây Bắc.

 

Cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Ông được cử làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn quân đánh giặc. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), khi sự mất còn của nền độc lập nước nhà chỉ còn trong gang tấc, vó ngựa hung tàn Nguyên - Mông chà đạp nhiều miền quê trọng yếu của đất nước, trong đó có cả Kinh thành Thăng Long, hành cung Long Hưng và phủ Thiên Trường, nội bộ quý tộc và quan lại triều Trần lúc bấy giờ đã có người nao núng định cầu hòa với giặc, nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn hiên ngang trả lời Đức Vua Trần: "Bệ hạ muốn hàng trước hết hãy chém đầu thần đi đã".

 

Tài thao lược của Trần Quốc Tuấn nổi bật là tính chủ động và linh hoạt "biết người, biết mình", chủ động điều địch, chủ động đánh địch, "xem xét quyền biến... tuỳ thời mà làm". Câu trả lời của Ông với vua Trần Nhân Tông: "Năm nay đánh giặc nhàn" khi quân Nguyên tiến công xâm lược lần thứ ba (1288), chứng tỏ vị chủ tướng đã biết rõ địch, biết rõ ta, phân tích sâu sắc tình hình thực tiễn và làm chủ được quy luật của chiến trận. Trong cuộc kháng chiến oai hùng bảo vệ non sông gấm vóc Đại Việt của quân dân Nhà Trần, giặc chưa bị đánh lớn mà đã sợ hãi rút chạy, cuối cùng chúng đại bại trên sông Bạch Đằng, tim vẫn đập, chân vẫn run khi chạy qua biên giới về nước.

 

Nhiều sử gia bình luận rằng: đó là kết quả kỳ diệu của phương pháp dùng binh độc đáo của Hưng Đạo Đại Vương, do vậy, lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của quân dân Đại Việt đã xuất hiện hình thái thế trận của dân chúng đánh giặc ở khắp các xóm làng, kết hợp chiến đấu của quân triều đình với quân các lộ và dân binh, tiêu diệt địch trong những trận lớn, xây dựng một thế trận rộng mà sâu, mạnh mà vững, luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công, tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng quân thù. Sử cũ còn ghi: năm 1258, sau khi đã gieo rắc sự tàn phá, chết chóc khủng khiếp khắp châu Á sang châu Âu, đế quốc hung tàn trên lưng ngựa Nguyên - Mông cho hàng vạn kỵ binh thiện chiến tràn qua biên giới, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ nhất.

Dấu tích của Bến Tượng, nơi con voi chiến của Hưng Đạo Đại vương sa lầy.

 

Quân đội nhà Trần dồn lên chống giặc, biên cương máu chảy, khắp vùng biên ải vang tiếng gươm khua và tiếng hô vang dội của quân dân nhà Trần cùng nhau cứu nước. Những trận chiến ác liệt không làm nguôi ý chí tự cường bảo vệ biên cương. Lúc này, Trần Quốc Tuấn được vua Trần giao nhiệm vụ chỉ huy các tướng lĩnh điều quân thuỷ bộ bảo vệ vùng biên giới Tây Bắc. Những trận chiến khó quên, đến nỗi nhiều năm sau, khi về bái yết tổ tông nhà Trần ở Long Hưng, vua Trần Nhân Tông còn thốt lên đầy sảng khoái:

"Bạch đầu quân sĩ tại

Vãng vãng thuyết Nguyên Phong"

Dịch là:

Người lính già đầu bạc

Kể mãi chuyện Nguyên Phong

(Nguyên Phong là niên hiệu của vua Trần Thái Tông, đây muốn chỉ cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất vào năm Nguyên Phong thứ 7, theo dương lịch là năm 1258).

 

Nhưng, thế giặc đang mạnh, quân hung nô tàn bạo còn hăng máu "ăn tươi, nuốt sống", vua Trần vì muốn muôn dân trăm họ ít tổn hao, thương vong nên dùng kế bỏ đất, lùi dần. Cuối cùng, trước thế giặc ngông cuồng tàn bạo, vua tôi nhà Trần buộc phải bỏ cả kinh thành Thăng Long lùi về phòng ngự ở hạ lưu sông Hồng, trong đó có Long Hưng (Thái Bình nay). Tình thế hiểm nguy, nhưng chỉ sau 9 ngày, quân đội nhà Trần đã tập hợp được một đội quân hùng hậu lấy từ các đinh tráng khỏe mạnh trong các làng quê nhờ chính sách "ngụ binh ư nông".

 

Long Hưng - Kiến Xương được thiên nhiên ban tặng cho những con sông vòng tay ôm trọn. Ngã ba sông Luộc, nơi giao tiếp của cả hệ thống sông hạ lưu đó có vị trí vô cùng quan trọng được nhà Trần chú ý. Đây cũng là nơi gặp gỡ của các phủ lộ quan trọng như: Khoái Châu (Hưng Yên), Lộ Hồng (Hải Dương), Thiên Trường (Nam Định). Thế trận có thể từ ngã ba Luộc dễ dàng vòng lên phía bắc, hoặc vòng xuống phía nam bằng những luồng lạch sông, biển. Thời đó, giữa dòng Luộc cuộn trào đã nổi lên những bãi đất lớn, thuận tiện cho việc phục binh để khóa con đường tháo lui của quân giặc.

 

Từ thực tế chiến trận lần thứ nhất, nhà Trần đã khẩn trương cho thiết lập căn cứ phòng tuyến quy mô lớn ở Long Hưng. Cửa Hải Triều (Tân Lễ - Hưng Hà nay) được bố trí quân lính dựng rào lũy, đóng cọc chắn những đoạn hiểm yếu dưới sông Luộc. Những đồn binh được bố trí bí mật trong đám lau lách rậm rạp ở bãi nổi trên sông. Theo lệnh của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương, tướng Yết Kiêu đã đưa cả đội quân thủy lừng danh về đóng ở ngã ba Nông (Điệp Nông - Hưng Hà); Cửu Khúc (sông Luộc chảy từ Hưng Hà sang Quỳnh Phụ), những địa điểm này cách cửa Hải Triều không xa, đây là căn cứ quân sự quan trọng để nhà Trần làm "thanh viện" đồng thời chặn đánh quân tiếp viện của quân Nguyên. Cứ theo dòng sông Luộc chảy cuộn về phía đông, nơi ấy có căn cứ lớn trên một dải đất rộng, sình lầy, lau lách.

 

Nơi đây vốn là an sinh thứ hai của Phụng Kiền Vương Trần Liễu, tên gọi A Sào  (An Thái - Quỳnh Phụ nay). Và cũng chính nơi đây, dưới triều Lý, vùng đất này đã được xếp vào danh hạng "tứ cố cảnh". Tứ cố cảnh có thế đất cao ráo, cư dân đông đúc, sản vật dồi dào là chỗ dựa vững chắc để quân dân nhà Trần có thể kéo dài cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Để chiến đấu với quân thù được vững vàng, nhà Trần cho xây dựng những kho lương nhằm tích lũy lương thảo như Mễ Thương (An Thái), Đại Nẫm (An Đồng)...Thế trận như sắp đặt trước, một bên là sông Luộc cuồn cuộn chảy, một bên là sông Hóa nước lững lờ trôi, tất cả thế đất, lòng dân đã được lập thành đại bản doanh của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương.

Dấu tích xưa kia, nơi đây là bến sông Hóa thuộc địa phận xã An Thái huyện Quỳnh Phụ, nhân dân đã tập trung cổ súy cho đội quân Nhà Trần đánh trận, nay là đền thờ Hưng Đạo Đại vương.

 

Sử sách và dân gian còn lưu truyền rằng: Đại bản doanh của Quốc công tiết chế có tiền đồn Lộng Khê (xã An Khê - Quỳnh Phụ nay) vươn ra đúng nơi gặp gỡ và gấp khúc của hai dòng Luộc - Hóa. Lui tầm mắt xuống phía nam A Sào (An Thái) là căn cứ thủy bộ Đào Động (An Lễ - Quỳnh Phụ), căn cứ thủy bộ khá quan trọng này được Quốc công tiết chế chọn giao cho tướng quân Phạm Ngũ Lão, vị tướng nổi tiếng quê làng Phù Ủng ( Hưng Yên). Tướng Lão dùng nơi đây làm nơi luyện tập của hai đạo binh thủy quân - lục chiến. Dòng sông Hóa là một thủy đạo lợi hại, Quốc công tiết chế cho xây dựng những đồn trại quân, lương dọc hai bờ sông đặc biệt ở Tô Đê (An Mỹ - Quỳnh Phụ). Phía dưới nữa là làng Cao Dương (Thái Thụy), nơi đây tập trung khá lớn nghệ nhân làm nghề rèn đúc, lập tức được trưng dụng làm nơi rèn binh đao, vũ khí của nhà Trần. Chiến trận không dừng ở Cao Dương (vùng đất làng nghề mà sau này khi đại chiến quân Nguyên - Mông, nhà Trần cũng đã sắc phong cho làng: "Cao Dương rèn sắt nên công nhất miền") mà còn lan rộng xuống vùng đất thấp ven biển (Thái Thụy nay).

 

Sử cũ ghi: lúc ấy, hữu tướng quân Lý Nghị lập đồn ở Gọc Vôi (Thu Cúc - Thụy Hưng); tả tướng quân Ngô Đức Thuần đưa quân ém ở chợ Gọc (Thụy Việt nay). Tả quân và Hữu quân tạo lên thế "đông phù, tây ủng" hỗ trợ nhau khóa chặt khúc sông Hóa gần cửa biển, theo dòng chảy của dòng Hóa mà quân dân nhà Trần chọn nơi hòa dòng nước chung của sông Hóa với dòng Tam Giang (sông Thái Bình mang phù sa bồi đắp thềm lục địa) thành căn cứ Bát Đụn Trang trải rộng khắp vùng...

(Còn tiếp)

Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

(Tài liệu tham khảo: ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ)

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày