Thứ 7, 19/07/2025, 13:17[GMT+7]

Chân lý lịch sử thuộc về Việt Nam

Thứ 3, 13/05/2014 | 20:59:30
1,132 lượt xem
Theo PGS, Thiếu tướng Lê Văn Cương - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an: Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là Trung Quốc rút giàn khoan của họ ra khỏi vùng biển của ta. Nhất định Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu bởi Việt Nam có hai điều mà Trung Quốc không có được: đạo lý và pháp lý.

Sơ đồ vị trí giàn khoan HD-981 của Trung Quốc hạ đặt trái phép nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam - Ảnh nhỏ: Giàn khoan HD-981 khổng lồ của Trung Quốc.

Theo tin đã đưa từ VTV Online và Vietnam+, trong hai ngày 12 - 13/5, các tàu và máy bay bảo vệ giàn khoan HD-981 của Trung Quốc tiếp tục triển khai ngăn chặn lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam tiếp cận giàn khoan.

Vào lúc 8 giờ 40 phút ngày 12/5, tại tọa độ 15 độ 22 phút -111 độ 9 phút, cách Nam giàn khoan HD-981 khoảng 7 hải lý, tàu Hải Cảnh Trung Quốc 3401 sử dụng vòi rồng phun nước vào Tàu Trường Sa 22 của Việt Nam. Trong ngày 13/5, Trung Quốc đã sử dụng 86 tàu làm lực lượng hộ tống, bảo vệ cho hoạt động trái phép, xâm phạm của giàn khoan HD-981 trên thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vào lúc 8 giờ 30 trong ngày, Trung Quốc đã sử dụng 3 tàu bao vây tàu Cảnh sát biển 4032 của Việt Nam; vừa phun nước, vừa lao vào ngăn cản, đâm vào mạn trái tàu Cảnh sát biển 4032. Đồng thời, tàu Hải cảnh của Trung Quốc đã ngăn cản, dùng súng bắn nước vào tàu Kiểm ngư 628 của Việt Nam khi tiếp cận cách giàn khoan Trung Quốc 5,3 hải lý.

Bất chấp pháp luật và đạo lý, Trung Quốc đang ngày càng có những hành động mang tính khiêu khích, đe dọa với những lập luận vô căn cứ. Phía Trung Quốc cho rằng “hoạt động của giàn khoan HD-981 là hoạt động dầu khí bình thường của Trung Quốc ở khu vực phía Nam đảo “Trung Kiến” (tức đảo Tri Tôn) thuộc quần đảo “Tây Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam), không liên quan gì đến thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc cũng cho rằng đây là “khu vực thuộc vùng biển của quần đảo “Tây Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và hoạt động lần này là hoạt động thăm dò dầu khí bình thường trong vùng biển do Trung Quốc quản lý, “không có tranh chấp”.

Trả lời câu hỏi của phóng viên về thông báo hàng hải ngày 3/5/2014 của Cục Hải sự Trung Quốc nói rằng giàn khoan HD-981 tiến hành khoan và tác nghiệp tại vị trí có tọa độ 15o29’58” vĩ Bắc - 111o12’06” kinh Đông từ ngày 2/5 đến 15/8/2014, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ: “Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan HD-981 nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối”.

PGS, Thiếu tướng Lê Văn Cương - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an đã khẳng định: “Về mặt lịch sử văn hóa, trong 24 bộ lịch sử của Trung Quốc, không có một chữ nào trong 24 bộ sử ấy nói Hoàng Sa, Trường Sa thuộc triều đại phong kiến Trung Quốc - từ thời nhà Hán, nhà Tống, nhà Minh hay nhà Thanh. Cũng không có bản đồ nào của triều đại phong kiến Trung Quốc vẽ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Trung Quốc”.

Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên, chỉ với những tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để chứng minh người Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.

Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.

Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.

Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865 - 1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802 - 1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này.

Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa  vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền.

Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định rõ ràng.  

Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật... 

Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26/7/1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.

Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ) có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào.

Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng.

Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền VNCH đã kịch liệt phản đối. Năm 1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội VNCH đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 “ngư dân” Trung Quốc.

Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã kịch liệt phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc.

Năm 1975, chính quyền VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầy đủ các đảo do quân đội VNCH cai quản trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa cũng như hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các quần đảo này.

Một sự thật hiển nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện nào của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14/3/1988, Trung Quốc bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ quyền chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực.

Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle) chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa của Việt Nam được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982.

Về mặt địa chất, các nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một thành phần của Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa (Spratly) chỉ cách đất liền Việt Nam từ 150 đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt Nam.

Một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên quan tới Biển Đông là phải tuân thủ pháp luật chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ.

Tại buổi chia sẻ thông tin về tình hình Biển Đông do Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam tổ chức sáng 13/5, TS Nguyễn Thị Lan Anh - Phó trưởng khoa Luật quốc tế, Học viện Ngoại giao đã dựa trên nhiều văn kiện cơ bản, trong đó có Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) để đưa ra các luận điểm khẳng định chủ quyền của Việt Nam, đồng thời lên án sự vi phạm nghiêm trọng của Trung Quốc.

Vị trí hạ đặt giàn khoan HD-981 nằm cách đảo Lý Sơn của Việt Nam là 119 hải lý, tức là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Điều 57 UNCLOS ghi rõ: Chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế không vượt quá 200 hải lý từ đường cơ sở. Điều 76 cũng quy định chiều rộng của vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý từ đường cơ sở. Từ đây, có thể khẳng định, Trung Quốc không thể ngụy biện hay bao biện rằng vị trí hạ đặt dàn khoan thuộc vùng biển thuộc Tây Sa của Trung Quốc như người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước này đã nói. Trước hết, Tây Sa là tên mà Trung Quốc đặt cho quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Nhưng từ thế kỷ XVII, qua các hoạt động chiếm hữu thực sự của các đời vua Nguyễn, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý để chứng minh chủ quyền đối với Hoàng Sa.

Việc Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp Hoàng Sa bằng cách sử dụng vũ lực năm 1974 là trái với Hiến chương Liên hợp quốc. Thêm nữa, áp dụng luật pháp quốc tế và UNCLOS thì vùng thềm lục địa ở quanh Hoàng Sa cũng không thể mở rộng đến 200 hải lý bởi đảo Tri Tôn chỉ là một cồn cát.

Còn theo Điều 56 và Điều 76 UNCLOS, Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam bởi theo hai điều này, trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quốc gia ven biển có: Quyền chủ quyền với tài nguyên thiên nhiên, quyền tài phán với việc lắp đặt các công trình thiết bị nổi trên biển. Trong khi đó, khi Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981, họ chưa hề và cũng không hề xin phép hay nhận được sự cho phép nào của Chính phủ Việt Nam.

Trung Quốc cũng đã vi phạm những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế gồm nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp và nguyên tắc cấm đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực (thể hiện ở việc các tàu Trung Quốc chủ động tấn công lực lượng kiểm ngư Việt Nam). Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng vi phạm quyền tự do hàng hải và đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không.

Nói như PGS, Thiếu tướng Lê Văn Cương - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an: Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là Trung Quốc rút giàn khoan của họ ra khỏi vùng biển của ta. Nhất định Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu bởi Việt Nam có hai điều mà Trung Quốc không có được: đạo lý và pháp lý. Hai điều này chính là sức mạnh của Việt Nam, là tài sản mà mặc dù Trung Quốc có thể có nhiều vũ khí, nhiều người, nhiều tiền của nhưng không thể và cũng không bao giờ có được, chỉ Việt Nam mới có. Điều đó cũng đồng nghĩa với chân lý lịch sử luôn thuộc về Việt Nam.

Quang Minh
(Tổng hợp)

 

 

  • Từ khóa