Thứ 5, 01/05/2025, 11:02[GMT+7]

Trường Sa Dáng hình Tổ quốc

Thứ 2, 26/05/2014 | 20:00:16
1,570 lượt xem
Trong chuyến công tác đến với Trường Sa nhân các hoạt động triển lãm tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử” vào những ngày tháng 4 vừa qua, bạn đọc Phạm Công Ðảo - một cán bộ của Cục Thông tin đối ngoại - Bộ Thông tin và Truyền thông, từ những xúc cảm mãnh liệt của những vần thơ “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa...” (Nguyễn Việt Chiến) đã gửi v

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng trao tặng bản đồ và Châu bản về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trên đảo Sinh Tồn.

  

Kỳ 1: Những bằng chứng lịch sử “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Namon>”

 

Lịch sử còn đây

 

“Khi ta lớn lên Ðất Nước đã có rồi/ Ðất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể”… Nơi ấy, từ mấy trăm năm trước, các triều đại phong kiến Việt Namon> đã nhiều lần khẳng định chủ quyền lãnh thổ, đó là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Thời Minh Mạng, Ðại Nam Thực lục Chính biên, Ðệ nhị kỷ, quyển 104 chép: "Năm 1833, Vua (Minh Mạng) bảo Bộ Công rằng dải Hoàng Sa nằm trong hải phận Quảng Ngãi", hoặc năm 1836, Ðại Nam Thực lục Chính biên, Ðệ nhị kỷ, quyển 165 chép: "Bộ Công tâu: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển của nước ta, rất là hiểm yếu". Năm 1847, tờ phúc tấu của Bộ Công trong tập Châu bản tập 51, trang 235 ghi rõ: "Bộ Công tâu lên Vua (Thiệu Trị): "Hàng năm, vào mùa xuân, theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa, thuộc hải cương nước nhà". Sách Ðại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10 chép: "Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa châu".

 

Từ đầu Triều Nguyễn, những đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa đã được thành lập, hàng năm đều ra bảo vệ và khai thác tài nguyên ở hai quần đảo "thuộc hải cương nước nhà" ấy. Thời vua Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn đã cho dựng miếu bằng đá để thờ cúng, đào giếng lấy nước ngọt... và đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đằng xa nhận thấy, tránh bị nạn. Nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận các thực vật ở Hoàng Sa, Trường Sa phần lớn có nguồn gốc ở miền Trung Việt Namon>. Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc ghi rõ có miếu Hoàng Sa Tự của Việt Namon>...

 

Bắt đầu từ năm 1816, việc xem xét và đo đạc thủy trình... để vẽ bản đồ ở Hoàng Sa do Bộ Công chỉ đạo thủy quân phối hợp với giám thành, với địa phương Quảng Ngãi. Ðến năm Minh Mạng thứ 14 (năm 1833), Vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công đẩy mạnh việc dựng bia chủ quyền, cắm cột mốc ở Hoàng Sa. Cho đến năm 1939, các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa vẫn do Pháp, thay mặt nước Việt Namon>, thực hiện chủ quyền.

 

Khai mạc Triển lãm tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Namon> - Những bằng chứng lịch sử”.

 

Trên thực tế, việc thực thi kiểm soát sự khai thác các sản vật ở Biển Ðông của Ðội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh được thành lập quản lý và hoạt động liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ 17 cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như xây cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, khai thác tài nguyên của Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chính vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, tất cả là những bằng chứng hiển nhiên về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namon> cũng đã nhiều lần khẳng định: Việt Namon> có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của Việt Nam tiến hành trên các quần đảo và vùng biển của Việt Nam, kể cả việc phân lô, thăm dò và khai thác dầu khí là hoàn toàn bình thường, phù hợp với luật pháp Việt Nam, luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông.

 

Hành trình trên đảo

 

Ðoàn chúng tôi gồm 181 thành viên xuất phát từ cảng Cam Ranh trên con tàu HQ561 hành trình ra đảo lần này có sự góp mặt của 4 cán bộ công tác trong ngành Thông tin - Truyền thông, Tuyên giáo và các cán bộ Cục Quân nhu - Tổng cục Hậu cần và 15 người của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Tuy mỗi người công tác một lĩnh vực khác nhau nhưng đến với Trường Sa lần này tất cả đều chung một lòng tự tôn dân tộc, tình yêu biển khơi và luôn hướng về chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

 

"Nhổ neo ra khơi…", anh bạn làm ngành Tuyên giáo cất tiếng hát khe khẽ, bỗng dưng tôi cũng hát theo "Em đừng hỏi rằng vì sao anh ra đi/Em ơi cũng đừng nên hỏi anh rằng, ngoài khơi xa kia có những gì vẫy gọi anh...". Từ cảng Cam Ranh đến các đảo Ðá Lớn, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Cô Lin, Trường Sa Ðông, Ðá Tây, Trường Sa Lớn, Nhà giàn Phúc Tần, Vũng Tàu Cát Lái với hành trình hơn 1.000 hải lý, mỗi nơi đến đều để lại một dấu ấn khó quên đối với các thành viên trong đoàn.

 

Trao Châu bản triều Nguyễn về Tờ lệnh cho hậu duệ dòng họ Phạm.

 

Ðiểm đến đầu tiên - đảo chìm Ðá Lớn - đã để lại cho mọi người nhiều cảm xúc khó quên, bởi nơi đây dẫu có nhiều khó khăn về vật chất nhưng những người lính đảo đều tự hào và quyết tâm bám biển.

 

Tôi gặp trên đảo Ðá Lớn B một chàng trai thư sinh, người con của thành phố Tuy Hòa vừa ra đảo tròn 5 tháng nhưng rất vững tin và yêu đời. Còn Nguyễn Văn Hòa, một chiến sĩ mới tăng cường về đảo tâm sự với tôi: Dù khó khăn, gian khổ đến mấy chúng em vẫn luôn quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ðảo trưởng Phan Văn Huỳnh cũng thể hiện chung quyết tâm ấy, anh bảo, mình luôn vững tin và kiên định một lòng thủy chung với biển thì chẳng sợ gian nguy, kể cả phải hy sinh vì Tổ quốc.

 

Cuộc sống của người lính trên các đảo: Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa Ðông, Trường Sa Lớn tuy có nhiều khó khăn, vất vả nhưng vẫn chưa sánh bằng sự thiếu thốn của các chiến sĩ Nhà giàn và các đảo chìm: Cô Lin, Ðá Tây, Ðá Lát… Song, họ đều chung ý tưởng quyết tâm bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc và vượt khó vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

 

Gặp chúng tôi tại Nhà giàn DK1/17, anh Nguyễn Minh Thân - người con quê lúa Thái Bình - từng có 15 năm bám biển và từng làm nhiệm vụ qua nhiều nhà giàn tâm sự: Biển đảo là cuộc sống, là một thứ gì đó rất đỗi thiêng liêng, bởi vậy mà mỗi lần về đất liền nghỉ phép, tôi nhớ biển, nhớ đồng đội đến nao lòng.

 

Với hành trình đến các đảo lần này, ngoài các buổi giao lưu, tặng quà cán bộ, chiến sĩ trên đảo, đoàn còn tặng bản đồ, các thiết bị viễn thông, nghe nhìn và khai trương các điểm bưu điện tại nhiều điểm đảo.

 

Tại các đảo Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa Lớn, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trao tặng tư liệu và bản đồ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Các tư liệu được trao tặng tại các Nam Yết, Sinh Tồn và tại triển lãm gồm các văn bản do triều đình phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, khẳng định Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó đáng chú ý là bộ sưu tập gồm 19 Châu bản của vương triều Nguyễn, có niên đại từ triều Minh Mạng (1820 - 1841) đến triều Bảo Ðại (1925 - 1945) phản ánh quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền một cách liên tục dưới triều Nguyễn, do Ủy ban Biên giới Quốc gia (Bộ Ngoại giao) nghiên cứu, tuyển chọn, biên dịch, công bố và do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm và hiến tặng, 5 văn bản Hán Nôm từ năm Gia Long thứ 2 (năm 1803) đến năm Minh Mạng thứ 17 (năm 1836) ghi lại việc thành lập đội quân ra khảo sát các xứ của Hoàng Sa, 60 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, do Việt Nam, phương Tây và Trung Quốc công bố từ thế kỷ XVI đến nay, 15 văn bản hành chính thuộc Pháp và Việt Nam Cộng hòa về việc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

 

Bên lề cuộc triển lãm, chúng tôi được biết thông tin chính xác: Bộ Thông tin và Truyền thông vừa được một doanh nghiệp tài trợ mua Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827. Hiện tại Bộ Atlas đang trên đường chuyển về Việt Namon>. Ðây là một trong những tư liệu quý và cũng là bằng chứng thép làm tăng thêm bằng chứng không thể chối cãi về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Namon>.

Phạm Công Ðảo

(Cục Thông tin đối ngoại)

 

Ðón đọc Kỳ 2: Những chiến sĩ trung kiên nơi đầu sóng

 

 

  • Từ khóa