Thứ 6, 17/05/2024, 16:13[GMT+7]

“Rạng danh Tổ quốc, cơ đồ Việt Nam!”(1)

Thứ 4, 02/09/2020 | 09:23:32
1,615 lượt xem

Hà Nội đổi mới, phát triển.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn lịch sử vừa là lời tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào vừa là thông điệp đối ngoại với toàn thế giới về sự ra đời của một chính thể độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định đanh thép: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Từ mùa thu lịch sử ấy, 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết chí giành và giữ vững quyền tự do, độc lập, thống nhất đất nước. Không những thế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta còn tạo dựng cơ đồ, vị thế chưa từng có trong lịch sử nước nhà.

75 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải lãnh đạo đất nước trong bối cảnh vô cùng gian khó. Về kinh tế, Chính phủ tiếp nhận một nền kinh tế đầy tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém. Quốc khố trống rỗng, dự trữ lương thực hầu như không có, nạn đói lại tiếp tục tái diễn[2]. Về xã hội, hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc… tràn lan. Về an ninh - chính trị, bọn phản động không từ mọi thủ đoạn phá hoại hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Đất nước rơi vào tình thế “thù trong, giặc ngoài”. Trên cả nước còn hơn 6 vạn quân Nhật. Trong khi đó, quân đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật lũ lượt tràn vào nước ta. Ở miền Bắc là 20 vạn quân Tưởng, ở miền Nam là quân Pháp theo chân quân Anh với mưu đồ cướp nước ta một lần nữa. Về đối ngoại, mặc dù Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có cơ sở pháp lý vững chắc để khẳng định địa vị, chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước thế giới song thực tiễn cho thấy, trong thời cuộc đầy phức tạp của thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hầu như chưa thể có quan hệ ngoại giao chính thức với các quốc gia khác. 

Trong bối cảnh phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân vừa chống “thù trong, giặc ngoài” vừa xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6/1/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); tập trung chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, thực hành sách lược ngoại giao khôn khéo để tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. 

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hậu quả chiến tranh chưa kịp hàn gắn, đất nước lại liên tiếp bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới (Tây Nam và phía Bắc). Các cuộc chiến đấu này tuy không kéo dài nhưng đã gây tổn thất to lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ đối ngoại. Trong khi đó, sau khi thống nhất đất nước, nguồn viện trợ không hoàn lại của quốc tế cho Việt Nam giảm hẳn và không còn; cùng với đó là chính sách thù địch, bao vây, cấm vận của Mỹ đặt nước ta vào tình thế bị cô lập với thế giới. Các thế lực phản động ráo riết thực hiện các hoạt động phá hoại, âm mưu bạo loạn và lật đổ, kích động và chia rẽ hận thù dân tộc. Tình hình phức tạp nảy sinh sau chiến tranh cùng với những hậu quả chiến tranh chưa giải quyết xong đã tác động sâu sắc vào đời sống xã hội, tạo ra khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta những năm 1980. Cùng lúc đó, tình hình thế giới có nhiều biến đổi to lớn. Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tạo nên cú sốc chính trị chấn động nhân loại. Một lần nữa, trước hoàn cảnh hiểm nghèo, Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh, chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, tạo ra đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới cho xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. 

Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, đầy biến động, Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ổn định về chính trị, thành công trong đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững con đường đi lên CNXH. Từ tình trạng khủng hoảng, trì trệ, gần 35 năm đổi mới đã tạo nên một Việt Nam năng động, phát triển, có vị thế, uy tín, quan hệ ngoại giao ngày càng rộng mở và nâng cao, được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị ổn định, an ninh và an toàn. 

Về chính trị, Việt Nam luôn vững vàng trong mọi sóng gió của thời cuộc, là quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường phát triển của mình. Cách đây 75 năm, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau 30 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh phát triển đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH. 

Trong suốt tiến trình lịch sử 75 năm qua, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ. Thể chế, hệ thống chính trị từng bước hoàn thiện. Đặc biệt, Đảng ta chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; đồng thời, xác định đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Điều quan trọng cốt yếu là, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước và dân tộc. Đồng thời, vị thế, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được tăng cường trên trường quốc tế với sự thừa nhận và tôn trọng của các quốc gia với chế độ chính trị khác nhau. 

Cùng với việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng có những bước tiến quan trọng. Quốc hội đã có những bước đổi mới rõ nét, từ khâu bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Chính phủ có những thay đổi rõ rệt từ cơ cấu tổ chức đến phương thức hoạt động. Hệ thống các cơ quan tư pháp đã có những bước cải tiến theo yêu cầu dân chủ và pháp quyền. Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn. 

Về kinh tế - xã hội, từ một nền kinh tế hầu như không có gì sau khi giành độc lập, trải qua nhiều biến cố, sau gần 35 năm kiên trì và dũng cảm thực hiện công cuộc đổi mới, đến nay nền kinh tế nước ta không những thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển mà còn trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt bình quân 6,8%/năm. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Xếp hạng toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại; tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Việc triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được đẩy mạnh, nhiều thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến, quy trình quản lý công nghiệp hiện đại được áp dụng. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), có quan hệ thương mại với 224 đối tác; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam…

Đời sống nhân dân được cải thiện và không ngừng nâng cao. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.332 USD/người năm 2010 lên khoảng 3.000 USD/người năm 2020. Việc giải quyết lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội luôn được chú trọng. Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, toàn xã hội tham gia chăm sóc gia đình chính sách, người có công. Đáng chú ý là, thành tựu xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam được thế giới đánh giá cao; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. 

Về an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, có thể khẳng định, trong bối cảnh thế giới nảy sinh nhiều thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống phức tạp, cạnh tranh nước lớn gia tăng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có đầy đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước. 

Về văn hóa, với sự quan tâm của Đảng, văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước. Nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật đã có bước phát triển năng động, thích nghi với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhiều giá trị văn hóa Việt Nam được thế giới công nhận và trở thành một phần trong kho tàng văn hóa nhân loại. Hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở rộng. Đến năm 2020, cả nước có 28 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh. Hoạt động thể dục, thể thao ngày càng được mở rộng, đạt nhiều thành tích cao của khu vực và thế giới. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, tính chuyên nghiệp ngày càng nâng cao, thông tin kịp thời các hoạt động chính trị - xã hội, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của nhân dân. Đến tháng 1/2020, có khoảng 68,17 triệu người Việt Nam sử dụng dịch vụ internet, vào loại cao so với khu vực. 

Lĩnh vực y tế có sự đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức tổ chức khám chữa bệnh, từng bước thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh cho người dân; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh được nâng cao. Các chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được triển khai tích cực. Mức hưởng thụ dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi năm 2010 lên 73,7 tuổi vào năm 2020. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh, từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Việt Nam được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắc-xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc-xin. Chúng ta cũng tiếp tục làm chủ, hoàn thiện đưa nhiều kỹ thuật y học đạt tầm thế giới, thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị. Việt Nam cũng là điểm sáng trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ với việc thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu…, là một trong năm nước đang phát triển có mức tử vong bà mẹ, trẻ em giảm nhanh nhất trên thế giới. 

Đặc biệt, Việt Nam đã xây dựng được năng lực giám sát, phát hiện, chẩn đoán xác định dịch bệnh và ứng phó giải quyết dịch bệnh một cách nhanh chóng, hiệu quả; là một trong những quốc gia đầu tiên khống chế thành công dịch SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1; ngăn chặn thành công không để một số dịch bệnh nguy hiểm mới nổi xâm nhập như cúm A/H7N9, Ebola, MERS-CoV... 

Về giáo dục và đào tạo, từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng có nhiều đổi mới, thể hiện ở sự phát triển rộng khắp mạng lưới các trường học, sự tăng nhanh quy mô giáo dục, những chuyển biến bước đầu về chất lượng giáo dục. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Quy mô sinh viên đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2011 - 2020 tăng khoảng 2,4%. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã tăng mạnh về số lượng, chất lượng và được chuẩn hóa, ngày càng đồng bộ về cơ cấu. Các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục đào tạo được quan tâm đầu tư và từng bước hiện đại hóa. Đáng chú ý, những năm gần đây, chất lượng giáo dục phổ thông nước ta trở thành tâm điểm nghiên cứu của thế giới. Giáo dục hướng nghiệp đã được quan tâm đổi mới về nội dung, đa dạng hóa các hình thức theo hướng thiết thực, tăng tính thực hành, gắn với thực tiễn. Giáo dục mũi nhọn đã được chú trọng và tiếp tục đạt kết quả tốt. Học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực, sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc tế luôn đứng ở vị trí tốp đầu. Hiện nay chúng ta đang tích cực tiến hành một “cuộc cách mạng” về giáo dục với việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), bảo đảm cho giáo dục Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. 

Về đối ngoại, với sự quan tâm dìu dắt và trực tiếp rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta được hình thành rõ nét và triển khai mạnh mẽ, phục vụ đắc lực mục tiêu cách mạng ở từng thời kỳ, góp phần vào đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNXH. Đại hội VII của Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế” với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đại hội IX khẳng định tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đại hội XI đưa ra chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội XII khẳng định hoạt động đối ngoại lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng. 

75 năm trước, chỉ 3 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ mới, ngày 5/9/1945. Người viết: “Dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Đây chính là ước nguyện cháy bỏng của Người, đại diện cho khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Suốt 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đi qua những chặng đường cách mạng muôn vàn khó khăn và thử thách nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang. 

Tại lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Cơ đồ và vị thế đó được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta không tiếc máu xương xây dựng, vun đắp và củng cố với sự giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ. Cơ đồ và vị thế đó không chỉ là những con số, những nhận định trong nước và quốc tế về “sức mạnh cứng”, “sức mạnh mềm” của Việt Nam. Hơn tất cả, cơ đồ và vị thế đó được thể hiện bằng NIỀM TIN. Đó là sự tự tin của toàn Đảng vào nền tảng tư tưởng và sức chiến đấu của một Đảng cách mạng được tôi luyện trong lửa đỏ. Đó là lòng tin của nhân dân vào vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và vào con đường tất yếu đi lên CNXH. Đó cũng là niềm tin của cộng đồng quốc tế vào một Việt Nam với chế độ chính trị ổn định, xã hội nhân văn, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, là thành viên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Với NIỀM TIN đó, với cơ đồ vững chắc và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, Việt Nam tiếp tục kiên định con đường xây dựng CNXH, tiếp tục gặt hái những thành tựu to lớn hơn nữa trên chặng đường 1/4 thế kỷ sắp tới, hướng tới kỷ niệm 100 năm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

(lược trích theo tuyengiao.vn) 

[1] Trích Lời chúc tết xuân Canh Tý 2020 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. 

[2] Trong giai đoạn 1945 - 1975, kinh tế miền Nam phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ Mỹ nhưng hết sức yếu ớt, trống rỗng. 

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày