Chuông vàng nội ô
Theo sử cũ, thời Hùng Duệ Vương, nhà nước Văn Lang phân định ngôi vị cho quan văn là Lạc Hầu, quan võ là Lạc Tướng, dân trăm họ là Lạc Dân, đất canh tác là Lạc Điền, đất ở là Lạc Thổ thì vùng đất Lạc Đạo ngày ấy (nay là phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) đã có 1 trong 50 người con của mẹ Âu Cơ về khai phá đầm, bãi gieo trồng, đánh bắt tạo thành làng mạc trù phú với những ruộng lúa, nương dâu tốt tươi, hình thành trang Đậu (ngã tư Đậu) với các địa danh Lạc Thổ (phía Bắc), Lạc Điền (đất trồng lúa), Lạc Chính (đất trung tâm), Lạc Phú (cực Bắc phường), Lạc Đạo thủy cơ phường (làng chài Cự Lộng), Đồng Lạc hay còn gọi là Tam Lạc và đạo trưởng cai quản, chăm sóc lạc dân…
Kể từ thuở “mang gươm đi mở đất”, 1 trong 50 người con của mẹ Âu Cơ đưa người từ núi Nghĩa Lĩnh về miền châu thổ sông Hồng khai phá đầm, bãi, tạo dựng cơ nghiệp của tổ tiên. Thời kỳ hậu Hùng Vương vùng đất Lạc Đạo đã có Lạc Thổ cho dân ở, Lạc Điền cho dân cấy cày…
Các truyền ngôn và thư tịch cổ cho thấy vào đầu công nguyên Lạc Đạo đã có người giàu sang, giấu của, có chùa, có mộ hoành tráng.
Theo cuốn “Thần tích Trần Minh Công” thì đến đầu thế kỷ thứ X (sau công nguyên) Lạc Đạo trở nên trù phú bên bờ biển Đông và trở thành Kỳ Bố Hải Khẩu, một trong vài thương cảng lớn trong toàn cõi An Nam, trở thành cứ địa của tướng công Trần Lãm. Cát cứ của Trần Lãm cũng nhanh chóng được Đinh Bộ Lĩnh từ Tràng An sang nương nhờ làm điểm tựa để dẹp loạn mười hai sứ quân rồi xưng vương.
Theo cuốn “Xã chí xã Vũ Lãm” thì Bố Hải xưa (nay là địa phận phường Kỳ Bá và Trần Lãm) là nơi tiêu nước của dòng Lãng Khê. Sách cũng chép dòng Bạch Lãng (sông Trà Lý nay) cũng chính là tên một địa danh cổ xưa trên đất Lạc Đạo. Tại làng Lạc Đạo (nay là khu Lạc Đạo, phường Trần Lãm) có ngôi chùa cổ kính, tên Nôm gọi là chùa Ngàn, tên chữ là Viên Quang tự. Trong chùa có đôi câu đối:
Lạc Đạo kiến già lam sắc tướng lưu truyền Viên Quang tự
Bồ tân duyên Bố Hải phàm kinh độ Ấn Hồ tăng.
Tạm dịch là:
Dựng chốn tổ ở Lạc Đạo, sắc tướng lưu truyền ở chùa Viên Quang
Bến Bồ theo cửa Bố Hải, thuyền các nhà sư Ấn Hồ (Ấn Độ) đã qua đây.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thanh, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, từ thế kỷ I (sau công nguyên) đất Lạc Đạo (nay là phường Trần Lãm) vốn là nơi tụ hội của nhiều dòng dân di cư. Do lợi thế về đất đai trù mật, dân cư đông đúc, lại có dòng Bạch Lãng (sông Trà Lý nay) chảy kế bên, cách không xa là dòng Hồng Hà nối Bố Hải khẩu với thành Thăng Long nên các thuyền bè thương lái qua đây tấp nập. Đi cùng với thương gia, nhiều thuyền của các đạo sĩ Ấn Độ sang truyền giáo ở xứ Giao Châu cũng vì thế mà ghé qua Lạc Đạo. Bỗng nhiên Lạc Đạo trở thành trung tâm truyền giáo đạo Phật, sau đó từ Lạc Đạo các thuyền truyền giáo tiếp tục ngược sông Trà Lý ra sông Hồng lên phía Bắc và về thành Luy Lâu (Bắc Ninh). Bên cạnh làng Lạc Đạo là làng Cự Lộng tương truyền nơi đây là cửa Long Vương (thần sông biển), dân khắp nơi kéo đến Cự Lộng (làng chài cực lớn) làm nghề đánh bắt cá. Ngày đẹp trời, những con thuyền từ Cự Lộng thẳng tiến ra biển. Ngày động trời, dân chài lui thuyền vào Cự Lộng đánh bắt cá nước ngọt. Cự Lộng còn có tên gọi khác là Lạc Đạo thủy cơ phường. Đến thời Lý Thánh Tông, vua ban chiếu đắp đê sông Bạch Lãng (Trà Lý) xuống đến tận cửa Đại Toàn (Thái Phúc, Thái Thụy nay) khiến cho làng Cự Lộng thành đầm kín trong đê. Thế kỷ XV - XVII, triều Lê, quá trình biển lùi cộng với sự bồi đắp của hệ thống sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý mà Cự Lộng dần dần thành vùng đất cao, cư dân sung túc, lại được chính sách của triều đình cho phép dân chài mua đất neo thuyền tránh bão, mua thổ lập nhà nên nhiều dân chài Cự Lộng đã bỏ nghề lên bờ trồng lúa nước, một số theo dòng Trà Lý xuống vùng Văn Chàng, Bến Trấn (Thụy Liên, Thái Thụy nay) tiếp tục làm nghề chài lưới.
Có ngôi chùa cổ được xây dựng muộn hơn chùa Ngàn ở làng Lạc Đạo, văn bản Hán Nôm khắc trên cây hương đài trước cửa chùa có ghi vào thế kỷ XVII, năm Ất Dậu (1705), đời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ nhất Cự Lộng cũng là điểm dừng chân của nhiều chuyến thuyền truyền chân giáo. Có đạo sĩ ngắm nhìn thế đất làng Cự Lộng là nơi cồn cao, có nhiều lạch sông nhỏ chảy uốn khúc như rồng bò, đỉa lội, chỗ thắt miệng túi, chỗ uốn hình sin, nhân dân quen gọi là dòng 99 khúc… liền vận động dân chúng dựng chùa.
Theo truyền ngôn có 18 vị tăng và chức sắc đã cùng dân làng Cự Lộng quyên góp tiền của dựng xây Tam bảo, tên Nôm gọi là chùa Lộng, tên chữ là Phổ Ân tự. Đến năm Bính Tuất (1706) chùa đã dựng xong. Năm Canh Dần (1710), ông Phạm Hữu Phúc và vợ là Nguyễn Thị Hoàng đã hưng công lập cây hương đài ghi danh công đức xây dựng chùa Lộng, lưu truyền hậu thế. Chùa đón sư ông Lương Công Hằng, đạo hiệu Huyền Chân tự Pháp Huy về trụ trì. Theo các tàng thư, làng Cự Lộng xưa là ngư trường đánh bắt thủy hải sản lớn nhất ven sông Tiểu Hoàng thời cổ. Cánh đồng Cự Lộng hiện nay sát cạnh đê Trà Lý mùa mưa nước ngập ngút đầu người là dấu tích cổ xưa của một vùng sông nước mênh mông. Chùa Lộng được dựng trên gò đất cao nhất thời bấy giờ, cửa mở hướng nhìn về Tây phương, phía sau có dòng Bạch Lãng chảy uốn quanh, chiều tà tiếng chuông chùa Lộng ngân vang lay động dòng Bạch Lãng.
Trải qua các đời vua Tự Đức (1852 - 1865), vua Thành Thái (1893), vua Duy Tân (1913) và vua Bảo Đại (1937) các triều đều có sắc phong cho chùa Lộng, thời này các tín đồ Phật tử và nhân dân thập phương đã tôn tạo chùa Lộng to đẹp hơn. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1950 - 1954), chùa Lộng là cơ sở hoạt động cách mạng của chi bộ đảng, của bộ đội và dân quân, du kích Trần Lãm.
Ông Vũ Đức Thơm, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Ni sư Thích Đàm Tuyến, trụ trì chùa Lộng, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình Ông Vũ Đình Y, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình Ông Phạm Cao Xạ, trưởng ban khánh tiết chùa Lộng, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình Chùa Lộng còn lưu giữ được bia đá, chuông đồng, tượng pháp cùng nhiều hiện vật cổ từ thời kỳ xây dựng chùa thế kỷ XVII, mấy năm gần đây thực hiện chủ trương xã hội hóa và những tấm lòng thiện nguyện của nhân dân xa gần, chùa Lộng đã mở rộng được không gian, xây dựng và cải tạo gác chuông, hồ cảnh, tượng phật bà Quan Thế Âm đã hoàn nguyện. |
Quang Viện
Tin cùng chuyên mục
- Kỷ niệm 195 năm thành lập huyện Tiền Hải (1828 - 2023)Tiếng thơm muôn thuở 06.10.2023 | 08:49 AM
- Kỷ niệm 195 năm thành lập huyện Tiền Hải (1828 - 2023)Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ với cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải 06.10.2023 | 08:50 AM
- Bến phà Tân Đệ: Nơi Đảng kỳ hiên ngang tung bay 02.09.2023 | 07:40 AM
- Côn Đảo - Trường học cách mạng của cả nướcKỳ 1: Chốn "địa ngục" trần gian 17.07.2023 | 14:40 PM
- Phù sa châu thổ 12.12.2022 | 09:04 AM
- Ký ức nụ cười Thành cổ Quảng Trị 15.09.2022 | 22:10 PM
- Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô (28/08/1972- 28/08/2022)Tàu Ô - Xóm Ruộng - “bức tường thép” trên đường 13 22.08.2022 | 15:19 PM
- Kỷ niệm 132 năm ngày thành lập tỉnh Thái Bình (21/3/1890 - 21/3/2022)Các hình thức đấu tranh chống Pháp trước và sau khi thành lập tỉnh Thái Bình 16.03.2022 | 15:21 PM
- Kỷ niệm 132 năm ngày thành lập tỉnh Thái Bình (21/3/1890 - 21/3/2022)Tiền Châu trỗi dậy 15.03.2022 | 09:32 AM
- Rũ áo không để sờn chữ trung 08.11.2021 | 10:00 AM
Xem tin theo ngày
- Viết tiếp bản hùng ca đại thắng
- Thái Bình vươn lên cùng cả nước
- Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại vào Thái Bình tại Hà Lan
- Dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và viếng các anh hùng liệt sĩ
- Đoàn công tác của tỉnh tổ chức xúc tiến đầu tư tại Hà Lan
- Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW và sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU
- Quyết liệt thực hiện kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực
- Đồng chí Nguyễn Tiến Thành, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh thăm mô hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi
- Chống khai thác IUU là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và lâu dài
- Xúc tiến đầu tư, thương mại vào Thái Bình tại Hungary